Bản án 30/2018/HSST ngày 28/11/2018 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HƯƠNG TRÀ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 30/2018/HSST NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 28 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 30/2018/HSST ngày 14 tháng 11 năm 2018 đối với:

Bị cáo Nguyễn Văn D (tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam; sinh ngày 15/3/1976 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: TDP T, thị trấn S, huyện Q, tỉnh T. Nghề nghiệp: Lái xe; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Con ông: (Không rõ) và con bà: Nguyễn Thị N (Đã chết năm 2009). Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Vợ: Trần Thị H; Sinh năm: 1984; Con: có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2017. Tiền sự, tiền án: Không.

Bị cáo Nguyễn Văn D đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị hại Trần Thị C (đã chết):

1. Ông Cao T sinh năm 1960; địa chỉ: Thôn V, xã H, thị xã H, tỉnh T.

2. Bà Cao Thị Ngọc H, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn V, xã H, thị xã H, tỉnh T.

3. Ông Cao Ngọc N, sinh năm 1992; địa chỉ: Thôn V, xã H, thị xã H, tỉnh T.

4. Ông Trần Đ, sinh năm 1937; địa chỉ: Thôn V, xã H, thị xã H, tỉnh T.

5. Bà Đặng Thị B, sinh năm 1936; địa chỉ: Thôn V, xã H, thị xã H, tỉnh T.

6. Ông Cao Ngọc A, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn V, xã H, thị xã H, tỉnh T. Ông T, bà H, ông N, ông Đ, bà B có giấy ủy quyền cho ông A tham gia tố tụng tại phiên tòa. Ông A có măt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị H, sinh năm 1984; địa chỉ: TDP Tráng Lực, thị trấn Sịa, huyện Quảng Điền, tỉnh TT- Huế. Có mặt.

Người làm chứng: Ông Cao P, sinh năm 1959; địa chỉ: Thôn V, xã H, thị xã H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Nguyễn Văn D bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 05 giờ 00 ngày 10 tháng 8 năm 2018, Nguyễn Văn D có giấy phép lái xe ô tô hợp lệ (hạng B2) trực tiếp điều khiển xe ô tô tải BKS: 75C - 032.74 chạy trên đường Quốc lộ 49B theo hướng TP.Huế - Quảng Điền. Khi đến Km 42+900 thuộc địa bàn thôn Vân Quật Đông, xã Hương Phong, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, đây là đoạn đường được rải thảm nhựa, đường rộng 08 mét được chia thành 02 làn dành cho xe cơ giới ngăn cách bởi vạch kẻ đường màu vàng đứt quảng, cách hiện trường 70 mét về hướng Huế có gắn biển báo giao nhau với đường không ưu tiên, D điều khiển xe cách vạch kẻ đường ở giữa khoảng 0,3m đến 0,5m với tốc độ khoảng 20-25 km/h. Lúc này, D phát hiện bà Trần Thị C đang đi bộ cùng chiều phía trước cách xe ô tô do D điều khiển khoảng 30 mét và cánh mép đường phải 0,5m. Thấy vậy, D vẫn tiếp tục cho xe di chuyển về phía trước. Khi đầu xe ô tô cách bà Trần Thị C khoảng 5 mét, D thấy bà C đi bộ chuyển hướng từ phải sang trái đường theo hướng xe ô tô chạy, D liền đạp phanh nhưng do khoảng cách quá gần, nên để đầu xe ô tô va vào người bà Trần Thị C gây ra vụ tai nạn giao thông.

Hậu quả: Bà Trần Thị C bị thương tích cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện Trung ương Huế đến 22 giờ 00 cùng ngày thì tử vong.

Hiện trường để lại sau khi tai nạn xảy ra là: Đoạn đường tại Km 42+900 thuộc địa bàn thôn Vân Quật Đông, xã Hương Phong, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, đây là đoạn đường được rải thảm nhựa, mặt đường bằng phẳng, tầm nhìn không bị che khuất, đường rộng 08 mét được chia thành 02 làn dành cho xe cơ giới ngăn cách bởi vạch kẻ đường màu vàng đứt quảng, cách hiện trường 70 mét về hướng TP. Huế có gắn biển báo nguy hiểm giao nhau với đường không ưu tiên.

Theo hướng TP. Huế - Quảng Điền tiến hành khám nghiệm hiện trường đã xác định điểm va chạm đầu tiên giữa xe ô tô BKS: 75C – 032.74 và bà Trần Thị C cách mép đường phải 3m50 và cách tâm vùng dịch số 2 là 0m70 về phía Huế.

Trên cơ sở các dấu vết đã thu thập được tại hiện trường, phương tiện xác định nguyên nhân của vụ tai nạn trên là do lỗi hỗn hợp của hai phía. Lỗi của bị cáo Nguyễn Văn D điều khiển xe ô tô BKS: 75C - 032.74 không giảm tốc độ thấp hơn tôc độ tối đa cho phép (có thể dừng lại một cách an toàn) tại đoạn đường có biển cảnh báo nguy hiểm giao nhau với đường không ưu tiên, khi có người đi bộ qua đường vi phạm khoản 1, khoản 6 Điều 5 Thông tư 91/2015/TT-BGTVT ngày 31/12/2015, Điều 12 Luật giao thông đường bộ năm 2008. Lỗi của bà Trần Thị C đi bộ sang đường thiếu chú ý quan sát, không đảm bảo an toàn vi phạm khoản 2, khoản 3 Điều 32 Luật giao thông đường bộ năm 2008.

Ngày 11/8/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà đã ra Quyết định số 132/QĐ trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế xác định nguyên nhân chết đối với bà Trần Thị C.

Tại bản kết luận giám định số: 194-18/TT ngày 21/8/2018 Trung tâm pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận:

“1. Dấu hiệu chính qua giám định: Chẩn đoán pháp y: Chấn thương sọ não nặng nên nạn nhân tử vong nhanh ngay sau chấn thương.

Các thương tổn tập trung chủ yếu phía phải của nạn nhân.

2. Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não.”

Ngày 15/8/2018, Cơ quan CSĐT Công an thị xã Hương Trà ra Quyết định trưng cầu số 135 trưng cầu Phân viện khoa học Hình sự - Bộ Công an giám định mẫu xơ sợi màu đỏ thu tại mặt nạ phía trước đầu xe ô tô tải BKS: 75C - 032.74 (ký hiệu M1) cùng loại với 01 loại xơ sợi dệt vải áo sơ mi dài tay và quần thun dài màu đen thu của bà Trần Thị C.

Tại Bản kết luận giám định số 610/C09C(Đ5) ngày 28/8/2018, Phân viện hoa học Hình sự - Bộ Công an đã kết luận:

“Mẫu xơ sợi màu đỏ thu tại mặt nạ phía trước đầu xe ô tô tải BKS: 75C - 032.74 (ký hiệu M1) cùng loại với 01 loại xơ sợi dệt vải áo sơ mi dài tay và không cùng loại với xơ sợi dệt vải quần thun dài màu đen thu của bà Trần Thị Cúc”.

Vật chứng thu giữ gồm:

- Vật chứng đã trả lại cho chủ sở hữu: 01 xe ô tô tải BKS: 75C - 032.74, 01 giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT xe BKS: 75C - 032.74, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc xe ô tô BKS: 75C - 032.74, 01 gấy chứng nhận đăng ký xe ô tô tải BKS: 75C - 032.74 mang tên Trần Thị H.

- Vật chứng còn tạm giữ:

+ 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 mang tên Nguyễn Văn D.

+ 01 áo sơ mi tay dài carô sọc đỏ đen đã bị cắt dọc theo ống tay áo. 01 quần thun dài màu đen có nhiều chấm bi màu tím. 01 mảnh băng keo trong suốt cố định mẫu xơ sợi màu đỏ thu tại mặt nạ phía trước đầu xe ô tô tải BKS: 75C - 032.74.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Văn D đã thoả thuận bồi thường cho gia đình bị hại tổng số tiền là 20.000.000 đồng. Ông Cao Ngọc A, đại diện theo ủy quyền của gia đình bị hại đã nhận số tiền trên, không có yêu cầu gì khác và có đơn bãi nại và xin đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo Nguyễn Văn D.

Quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Văn D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 31/CT - ngày 13/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn D, về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm theo bản cáo trạng đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, 54, 65 Bộ luật hình sự, để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 9 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là từ 18 tháng đến 24 tháng về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Về xử lý vật chứng:

- Đề nghị trả lại 01 Giấy phép lái xe ô tô hạng B2 cho Nguyễn Văn D;

- Đối với 01 áo sơ mi tay dài carô sọc đỏ đen đã bị cắt dọc theo ống tay áo; 01 quần thun dài màu đen có nhiều chấm bi màu tím; 01 mảnh băng keo trong suốt cố định mẫu xơ sợi màu đỏ thu tại mặt nạ phía trước đầu xe ô tô tải BKS: 75C - 032.74 do không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Về án phí, buộc bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Hương Trà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 5 giờ 00 ngày 10 tháng 8 năm 2018, tại Km 42+900 QL 49B thuộc địa bàn thôn Vân Quật Đông, xã Hương Phong, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, Nguyễn Văn D trực tiếp điều khiển xe ô tô tải BKS: 75C - 032.74 chạy theo hướng TP. Huế - Quảng Điền. Khi đến địa điểm trên do không giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép tại đoạn đường có biển cảnh báo nguy hiểm giao nhau với đường không ưu tiên, khi có người đi bộ qua đường nên xe ô tô tải BKS: 75C - 032.74 va vào bà Trần Thị C đang đi bộ cùng chiều phía trước chuyển hướng từ phải sang trái đường gây tai nạn giao thông. Hậu quả: Bà Trần Thị C bị thương cấp cứu và điều trị tại bệnh viện TW Huế đến 22 giờ 00 cùng ngày thì tử vong.

[3] Như vậy lời khai của các bị cáo phù hợp với nội dung bản Cáo trạng, với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn D đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

[4] Xét về nguyên nhân của vụ tại nạn giao thông là do lỗi hỗn hợp của cả hai phía. Lỗi của bị cáo D điều khiển xe ô tô BKS: 75C - 032.74 không giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép tại đoạn đường có biển cảnh báo nguy hiểm giao nhau với đường không ưu tiên, khi có người đi bộ qua đường vi phạm khoản 1, khoản 6 Điều 5 Thông tư 91/2015/TT-BGTVT ngày 31/12/2015, Điều 12 Luật giao thông đường bộ năm 2008. Lỗi của bà Cúc đi bộ sang đường thiếu chú ý quan sát, không đảm bảo an toàn vi phạm khoản 2, khoản 3 Điều 32 Luật giao thông đường bộ năm 2008.

[5] Xét về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn D gây ra là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến tính mạng của người khác và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn giao thông trên địa bàn thị xã Hương Trà.

[6] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Bị cáo D không phạm vào tình tiết tăng nặng nào. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi; bị cáo đã bồi thường dân sự đầy đủ cho đại diện hợp pháp của bị hại, đại diện gia đình bị hại xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo là các tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nên cần áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hinh phạt Cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[7] Về biện pháp chấp hành hình phạt: Đây là vụ án tai nạn giao thông mà nguyên nhân là do lỗi hỗn hợp từ hai phía, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, ngoài hành vi lần này thì bị cáo chưa bị cơ quan pháp luật nào xử lý về hành vi vi phạm gì, có nơi cư trú rõ ràng, và có khả năng tự cải tạo nên không cần thiết phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự, cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

 [8] Về xử lý vật chứng:

- Trả lại 01 Giấy phép lái xe ô tô hạng B2 cho Nguyễn Văn D; Hiện giấy phép lái xe được lưu theo hồ sơ vụ án sẽ do Tòa án trả lại cho bị cáo

- 01 áo sơ mi tay dài carô sọc đỏ đen; 01 quần thun dài màu đen có nhiều chấm bi màu tím; 01 mảnh băng keo trong suốt cố định mẫu xơ sợi màu đỏ thu tại mặt nạ phía trước đầu xe ô tô tải BKS: 75C - 032.74 do không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

 [9] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54, Điều 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Nguyễn Văn D 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Giao bị cáo Nguyễn Văn D cho Ủy ban nhân dân thị trấn Sịa, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ Luật hình sự.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 áo sơ mi tay dài carô sọc đỏ đen đã bị cắt dọc theo ống tay áo; 01 quần thun dài màu đen có nhiều chấm bi màu tím; 01 mảnh băng keo trong suốt cố định mẫu xơ sợi màu đỏ thu tại mặt nạ phía trước đầu xe ô tô tải BKS: 75C - 032.74. (vật chứng có đặc điểm như biên bản giao vật chứng giữa Công an thị xã Hương Trà và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hương Trà lập ngày 14/11/2018)

3. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm xét xử công khai báo cho bị cáo; Đại diện hợp pháp của bị hại; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

414
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2018/HSST ngày 28/11/2018 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:30/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hương Trà - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về