Bản án 30/2018/HNGĐ-ST ngày 29/03/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 30/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 29 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 33/2018/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 585/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị H; cư trú tại: ĐKHKTT: Thôn K, xã Dương, huyện B, tỉnh Hải Dương; tạm trú: Thôn 01, xã P, huyện TN, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh MW; cư trú tại: Hàn Quốc; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và các bản tự khai, nguyên đơn là chị Bùi Thị H trình bày: Chị và anh MW quen nhau thông qua một người bạn giới thiệu, sau một thời gian tìm hiểu thì anh chị kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 24 tháng 5 năm 2017 tại Ủy ban nhân dân huyện Bình Giang, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Thời gian đầu chung sống cả hai đều thấy không hợp nhau, chị và anh thường xuyên phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng về ngôn ngữ, cũng như quan điểm, phong tục và lối sống khác nhau. Sau khi anh MW về nước, do khoảng cách địa lý xa nhau, tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng. Nay xác định cuộc sống chung không thể tiếp tục, tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh MW.

Về nuôi con và chia tài sản: Chị và anh MW không có con chung và tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong đơn xin ly hôn gửi đến Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, bị đơn là anh MW trình bày: Thống nhất với chị Bùi Thị H về quá trình kết hôn, về con chung, về tài sản chung, về lý do xin ly hôn đồng thời anh cũng đề nghị Tòa án xem xét giải quyết cho anh được ly hôn với chị Bùi Thị H để anh sớm ổn định cuộc sống.

Do anh MW đang ở nước ngoài căn cứ khoản 2 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án không tiến hành hòa giải.

Tại phiên tòa, chị Bùi Thị H giữ nguyên quan điểm như trong đơn xin ly hôn và các bản tự khai. Anh MW vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời khai của đương sự tại phiên tòa xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Bùi Thị H và anh MW kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân huyện Bình Giang, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương vào ngày 24 tháng 5 năm 2017, theo quy định tại Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đây là hôn nhân hợp pháp. Anh MW hiện đang cư trú ở nước ngoài, theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39, điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Anh MW hiện đang sinh sống ở nước ngoài, anh có đơn xin ly hôn, gửi về Việt Nam, tài liệu của anh đã được Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc chứng nhận. Trong đơn xin ly hôn anh đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt và ủy quyền cho chị Bùi Thị H nhận các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh MW.

[3] Về hôn nhân: Anh MW và chị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, nhưng do thời gian tìm hiểu không nhiều, hai bên chưa thực sự hiểu hết về tính cách, quan điểm sống của nhau nên khi chung sống cùng nhau thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Hiện nay, anh MW đã trở về Hàn Quốc, hai bên không còn quan tâm tới nhau cả về tình cảm và kinh tế, không có khả năng đoàn tụ, cả hai cùng xác định không còn tình cảm với nhau và đều muốn được ly hôn. Như vậy yêu cầu ly hôn của chị Hoa và anh MW là chính đáng.

[4] Xét quan hệ hôn nhân giữa chị H, anh MW đã thực sự không còn yêu thương, vợ chồng mỗi người một nơi đã bỏ mặc nhau, không ai quan tâm đến ai. Như vậy, cuộc sống chung không thể kéo dài, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy cần áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 châp nhân đê nghi xin ly hôn của chị Hoa.

[5] Về nuôi con và chia tài sản: Chị Bùi Thị H và anh MW, không có con chung, không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Bùi Thị H là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo của các đương sự: Chị Bùi Thị H và anh MW được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, điểm b khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 207, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 266, Điều 273, điểm d khoản 1 Điều 469, khoản 2 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị H được ly hôn với anh MW.

2.Về nuôi con và chia tài sản: Chị Bùi Thị H và anh MW  không có con chung và tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3.Về án phí: Chị Bùi Thị H phải chịu 300.000 đông (Ba trăm nghin đông) án phí ly hôn sơ thẩm . Nhưng đươc trư vao sô tiên tam ưng an phi dân sư sơ thâm đa nôp la 300.000 đông theo biên lai sô  0010661 ngày 02 tháng 3 năm 2018 tại Cuc Thi hanh an dân sư thanh phô Hai Phong. Chị Bùi Thị H đã nộp đủ.

4.Về quyền kháng cáo của các đương sự:

Chị Bùi Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh MW được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ. 

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
  • Tên bản án:
    Bản án 30/2018/HNGĐ-ST ngày 29/03/2018 về ly hôn
  • Số hiệu:
    30/2018/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    29/03/2018
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2018/HNGĐ-ST ngày 29/03/2018 về ly hôn

Số hiệu:30/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về