Bản án 30/2018/HNGĐ-ST ngày 04/06/2018 về tranh chấp yêu cầu ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC LONG, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 30/2018/HNGĐ-ST NGÀY 04/06/2018 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU LY HÔN

Ngày 04 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phước Long, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 275/2017/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 12 năm 2017 về việc: “Tranh chấp yêu cầu ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2018/QĐXX-ST ngày 16 tháng 4 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm 1976.

Trú tại: ấp B, xã P, huyện P, tỉnh B.

Bị đơn: Ông Huỳnh Văn Q, sinh năm 1975. Trú tại: ấp B, xã P, huyện P, tỉnh B.

(Bà Lê Thị T, ông Huỳnh Văn Q vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 19 tháng 12 năm 2017 và trong quá trình xét xử nguyên đơn bà Lê Thị T trình bày: Bà Lê Thị T xây dựng hôn nhân với ông Huỳnh Văn Q vào năm 1994 không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống vợ chồng bà phát sinh nhiều mâu thuẫn, tính tình không còn hợp với nhau, cuộc sống không còn hạnh phúc. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên bà yêu cầu ly hôn với ông Huỳnh Văn Q. Vợ chồng bà có 03 người con chung là cháu Huỳnh Ngọc C, sinh năm 1995, cháu Huỳnh Ngọc T, sinh năm 1996 và cháu Huỳnh Thái B, sinh năm 1998; các con của bà đã trưởng thành, nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung bà Lê Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Huỳnh Văn Q đã nhận được thông báo thụ lý của Tòa án, ông Huỳnh Văn Q không có mặt theo thông báo của Tòa án nên không có lời trình bày về những nội dung trên.

Về chứng cứ Tòa án đã thu thập được: Bản tự khai của bà Lê Thị T, biên bản lấy lời khai của bà Lê Thị T, biên bản xác minh tình trạng hôn nhân, đơn xin xác nhận địa chỉ của ông Huỳnh Văn Q.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện  Phước Long phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm:

Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật. Các đương sự tham gia trong vụ án cũng đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Bà Lê Thị T đã có đơn xin xét xử vắng mặt, ông Huỳnh Văn Q vắng mặt không có lý do, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ; căn cứ vào Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị xét xử vắng mặt đối với bà Lê Thị T, ông Huỳnh Văn Q. Từ đó đại diện Viện kiểm sát không có kiến nghị gì về tố tụng đối với vụ án.

Về nội dung: Do bà Lê Thị T và ông Huỳnh Văn Q không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên căn cứ khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị không công nhận bà Lê Thị T và ông Huỳnh Văn Q là vợ chồng; Về con chung: ba người con của bà Lê Thị T và ông Huỳnh Văn Q là cháu Huỳnh Ngọc C, sinh năm 1995, cháu Huỳnh Ngọc T, sinh năm 1996 và cháu Huỳnh Thái B, sinh năm 1998; các con của bà Lê Thị T đã trưởng thành, nên đề nghị Tòa án không xem xét giải quyết. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung Bà Lê Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên đề nghị Tòa án không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngày 19 tháng 12 năm 2017 bà Lê Thị T có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Huỳnh Văn Q; Do đó đây là “tranh chấp yêu cầu ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu. Tòa án nhân dân huyện Phước Long thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng. Bà Lê Thị T và ông Huỳnh Văn Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, bà Lê Thị T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, ông Huỳnh Văn Q vắng mặt lần thứ hai không có lý do, theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vụ án vắng mặt bà Lê Thị T, ông Huỳnh Văn Q.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị T và ông Huỳnh Văn Q bắt đầu chung sống từ năm 1994, xây dựng hôn nhân có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương, tuy nhiên ông bà không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. 

Tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình quy định việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện, việc kết hôn không được đăng ký thì không có gia trị pháp lý và tại Điều 14 quy định nam nữ có đủ điều kiện kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Từ đó căn cứ vào khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Lê Thị T và ông Huỳnh Văn Q.

[3] Về quan hệ con chung: Các con của bà Lê Thị T và ông Huỳnh Văn Q đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị T phải nộp 300.000đ.

[6] Từ những nhận định trên xét đề nghị của đại viện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Long về nội dung giải quyết vụ án là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 28, 35, 227, 228, 266, 271, 273 và Điều 322 Bộ luật tố tụng dân sự

- Áp dụng Điều 9, 14 và Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình được sửa đổi bổ sung năm 2014;

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Lê Thị T và ông Huỳnh Văn Q.

2. Về nuôi con chung: Bà Lê Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về chia tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Bà Lê Thị T phải chịu tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng); Bà Lê Thị T đã nộp tiền tạm ứng án phí là300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số  0010441 ngày 19 tháng 12 năm 2017 của Cơ quan thi hành án dân sự huyện Phước Long; đối trừ bà Lê Thị T đã nộp đủ.

5. Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

399
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2018/HNGĐ-ST ngày 04/06/2018 về tranh chấp yêu cầu ly hôn

Số hiệu:30/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về