Bản án 30/2017/HSST ngày 26/09/2017 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PƯH, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 30/2017/HSST NGÀY 26/09/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 26 tháng 9 năm 2017 tại Tòa ân nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 18/2017/HSST ngày 17 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đoàn Ngọc V (Ú), sinh ngày 02/02/2000 Nơi ĐKHKTT: thôn Lũh Ngó, xã Ia Hrú, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai. Chỗ ở hiện nay: thôn Tong Yong, xã Ia Hrú, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai. Nghề nghiệp: Làm nông. Trình độ học vấn: 7/12.       .

Con ông Đoàn Ngọc C và bà Trần Thị Thu T Tiền án, tiền sự: Không Bị bắt tạm giam ngày 28/8/2017. Có mặt

* Người bị hại: Phạm Thị N, sinh năm 1995

Trú tại: Thôn Tao Chor A, xã Ia H’rú, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai. Có mặt

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lưu Đình Q, Trợ giúp viên pháp lý

Địa chỉ: Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Gia Lai. Có mặt

* Người đại diện hợp pháp cho bị cáo và là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Trần Thị Thu T, sinh năm 1975

Trú tại: Thôn Tong Yong, xã Ia H’rú, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai (Mẹ đẻ bị cáo). Có mặt

2. Đoàn Ngọc C, sinh năm 1968

Trú tại: Thôn Luh Ngó, xã Ia Hrú, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai (Cha đẻ bị cáo). Vắng mặt

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Lê Văn T, sinh năm 1990

Trú tại: Thôn Tao Chor A, xã Ia H’rú, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai. Có mặt

NHẬN THẤY

Bị cáo Đoàn Ngọc V (Ú) bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vì trước đó giữa Đoàn Ngọc V và anh Lê Văn T (SN: 1990, trú: thôn Tao Chor A, xã Ia Hrú, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai) có xảy ra mâu thuẫn nên tối ngày 26/12/2016, trong lúc V cùng với Lê Hoài T (Tên gọi khác: T-SN: 27/12/1999, trú: Plei Phung A, xã Ia Phang, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai), Nguyễn Trường G (SN: 1998, trú: thôn Phú Quang, xã Ia Hrú, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai), đối tượng T và hai người bạn của T (hiện chưa rõ nhân thân lai lịch) đang ngồi uống rượu với nhau thì V có kể về việc mâu thuẫn với anh T rồi nói với cả nhóm “Đi đến nhà anh T tìm anh T để đánh giải quyết mâu thuẫn” thì tất cả đồng ý. Khoảng 22 giờ cùng ngày, V và các đối tượng trên đến nhà anh T, quan sát thấy gia đình anh T đã tắt điện đi ngủ nên V và các đối tượng đã nhặt cây, đá rồi V, T và hai người bạn của T đi vào nhà anh T, còn T và G đứng ngoài. Anh T và vợ là chị Phạm Thị N đang ở trong nhà nghe tiếng bước chân đi vào nên anh T có hỏi ra “Thằng nào ở ngoài vậy” nhưng không ai trả lời. Lúc này, V tiến sát đến cửa dùng 01 khúc cây gỗ (dài khoảng 70cm) đập bung cửa ra vào phía trước rồi lùi ra đứng cách nhà anh T khoảng 02m, tay cầm 02 cục đá (to bằng nắm tay người lớn) ném liên tiếp vào trong nhà. Chị Phạm Thị N đang ở trong nhà thì bị ném trúng vào miệng làm chảy máu và gãy 02 chiếc răng, đồng thời hư hỏng một số tài sản gồm: 01 tấm gương soi kích thước (36 x 120)cm, loại kính 03 ly; 01 tấm kính hoa văn kích thước (36 x 120)cm, loại kính 04 ly; 01 tấm kính hoa văn kích thước (50 x 140)cm, loại kính 04 ly; 03 ly uống trà bằng sứ màu trắng (hiệu Camellia, đường kính 07cm, cao 05cm); 01 đĩa đựng ly uống trà bằng sứ màu trắng (hiệu Camellia, đường kính 12cm); 01 tấm tôn lượn sóng kim loại màu bạc kích thước (77 x 195)cm. Sau đó, V đi ra phía sau đập cửa sau nhà thì anh T hô lên “cướp, cướp” nên V và các đối tượng bỏ đi, còn chị N được đưa đi điều trị tài Trung tâm y tế huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, đến ngày 30/12/2016 thì ra viện.

Ngay sau khi nhận được tin báo, Cơ quan điều tra điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, điều tra xác minh, sàn lọc đối tượng và triệu tập Đoàn Ngọc V đến làm việc. Tại đây, V đã khai nhận hành vi của mình.

Ngày 06/3/2017, chị Phạm Thị N có Đơn yêu cầu giám định sức khỏe. Ngày 17/3/2017, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 47: giám định mức độ tổn hại sức khỏe của chị Phạm Thị N và cơ chế hình thành vết thương đối với những thương tích trên người chị N. Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 56 ngày 03/4/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Gia Lai kết luận:

- Mẻ thân răng 21, 22 đã làm răng sứ cố định: 02% (M II.1-T73). Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là: 02% (Áp dụng theo Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ y tế).

- Cơ chế hình thành vết thương là do cơ chế gián tiếp.

Ngày 17/5/2017, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 68: giám định vật tác động gây nên thương tích cho chị mức độ tổn hại sức khỏa của chị Phạm Thị N. Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 143 ngày 08/6/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Gia Lai kết luận: Vật tác động gây thương tích cho chị Phạm Thị N là do vật tày cứng. Ngày 18/4/2017, chị Phạm Thị N có đơn yêu cầu khởi tố vụ án.

Trước đó, ngày 27/12/2016, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu định giá tài sản số 15: Định giá giá trị của các tài sản bị hư hỏng nêu trên. Tại Kết luận định giá tài sản ngày 28/12/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chư Pưh kết luận:

- 01 tấm gương soi kích thước (36 x 120)cm, loại 3 ly sau khi tính phần hao mòn đã qua sử dụng có giá 300.000đ.

- 01 tấm kính có hoa văn kích thước (36 x 120)cm, loại 4 ly sau khi tính phần hao mòn đã qua sử dụng có giá 350.000đ.

- 01 tấm kính có hoa văn kích thước (50 x 140)cm, loại 4 ly sau khi tính phần hao mòn đã qua sử dụng có giá 450.000đ.

- 03 ly uống trà bằng sứ màu trắng (hiệu Camellia, đường kính 07cm, cao 05cm) sau khi tính phần hao mòn đã qua sử dụng có giá 45.000đ.

- 01 đĩa đựng ly uống trà bằng sứ màu trắng (hiệu Camellia, đường kính 12cm) sau khi tính phần hao mòn đã qua sử dụng có giá 70.000đ.

- 01 tấm tôn lượn sóng kim loại màu bạc kích thước (77 x 195)cm sau khi tính phần hao mòn đã qua sử dụng có giá 250.000đ. Tổng cộng giá trị tài sản bị thiệt hại là: 1.465.000đ.

* Về vật chứng vụ án: 

01 cục đá kích thước (10 x 17)cm; 01 viên gạch 06 lỗ màu đỏ; 01 khúc cây gỗ dài 68cm, đường kính 05cm và 01 khúc cây gỗ dài 79cm, đường kính 04cm mà Cơ quan điều tra đã thu giữ khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, xét thấy là những công cụ liên quan đến vụ án nên yêu cầu Cơ quan CSĐT Công an huyện Chư Pưh chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chư Pưh để quản lý, bảo quản và thi hành theo bản án.

* Về trách nhiệm dân sự:

Chị Phạm Thị N yêu cầu bồi thường các khoản chi phí điều trị thương tích, thuốc men, chi phí đi lại, tiền trồng răng, thiệt hại tài sản bị hư hỏng… với tổng số tiền là 13.500.000đ. Hiện bị can và gia đình chưa bồi thường. Tại bản cáo trạng số: 20/CTr-VKS   ngày 14 tháng 7 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Đoàn Ngọc V (Ú) về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Đoàn Ngọc V (Ú); đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 104, điểm h, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46, Điều 69, khoản 4 Điều 71, khoản 1 Điều 74 Bộ luật hình sự; khoản 6 Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Đoàn Ngọc V (Ú) với mức án từ 06 đến 09 tháng tù.

Người bào chữa cho bị cáo thống nhất với tội danh và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Tuy nhiên, cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Gây thiệt hại không lớn” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; bị cáo là người chưa thành niên phạm tội, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo với mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là hợp lý

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người tham gia tố tụng khác,

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đoàn Ngọc V (Ú) đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Hội đồng xét xử xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với những chứng cứ, bản kết luận giám định pháp y, giấy chứng nhận thương tích, tài liệu thu thập được có tại hồ sơ vụ án cũng như lời trình bày của những tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Do có mâu thuẫn từ trước với Lê Văn T nên tối ngày 26/12/2016, trong lúc uống rượu Đoàn Ngọc V (Ú) đã rủ T, G, T và hai người bạn của T tìm anh T để đánh thì được tất cả đồng ý. Khi đến nhà anh T, quan sát thấy nhà anh T đã tắt điện, V dùng 01 khúc cây gỗ đập bung cửa ra vào phía trước rồi lùi ra đứng cách nhà anh T khoảng 02m, cầm 02 cục đá ném liên tiếp vào nhà anh T trúng vào miệng chị N làm chảy máu và gãy 02 chiếc răng, đồng thời hư hỏng 01 tấm gương soi, 02 tấm kính, 03 ly uống trà, 01 đĩa đựng ly uống trà, 01 tấm tôn. Anh T hô cướp, cướp thì V và các đối tượng bỏ đi

Tại bản giám định pháp y về thương tích 56/TgT-TTPY ngày 03/4/2017 và số 143/TgT-TTPY ngày 08/6/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Gia Lai: Chị Phạm Thị N bị tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là: 2%.

Tại kết luận định giá tài sản ngày 28/12/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chư Pưh kết luận: 01 tấm gương soi, 02 tấm kính, 03 ly uống trà, 01 đĩa đựng ly uống trà, 01 tấm tôn là 1.465.000 đồng.

Khi gây thương tích cho chị N, bị cáo đã sử dụng cục đá (to bằng nắm tay người lớn) là “hung khí nguy hiểm” được quy định tại tiểu mục 3.1 mục 3 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC và người bị hại có đơn yêu cầu khởi tố nên hành vi của Đoàn Ngọc V đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai truy tố là đúng người, đúng tội. Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của chị Phạm Thị N một cách trái pháp luật mà còn trực tiếp xâm hại đến trật tự, trị an của xã hội ở địa phương. Hiệnnay loại tội phạm xâm hại trực tiếp đến sức khỏe người khác có chiều hướng giatăng, lấy việc giải  quyết mâu thuẫn với nhau bằng bạo lực, đã gây dư luận xấu, bất bình trong nội bộ quần chúng nhân dân. Để góp phần lập lại trật tự, an toàn xã hội cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mới đạt được mục đích giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, HĐXX xét thấy tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại phiên tòa người bị hại đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46  Bộ luật hình sự. Bị cáo là người chưa thành niên phạm tộinên  được hưởng những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội quy định tại Chương X Bộ luật hình sự.

Mặc dù, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội nhưng trong thời gian ngắn, ngay sau thực hiện hành vi phạm tội này, tiếp đến ngày 30/01/2017 tiếp tục thực hiện hành vi đánh nhau và bị xử phạt hành chính; ngày 08/3/2017 gây thương tích cho người khác và đã bị khởi tố, bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú lại bỏ trốn. Do đó, cần xử phạt tù bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có yêu cầu của người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; đồng thời bị cáo là người chưa thành niên; Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo với mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là hợp lý.

Đối với hành vi Đoàn Ngọc V dùng cây gỗ đập cửa, ném đá vào nhà làm hư hỏng một số tài sản của gia đình chị N, qua kết quả định giá thiệt hại là 1.465.000 đồng, chưa đủ định lượng để cấu thành tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, Công an huyện Chư Pưh xử phạt hành chính là đúng pháp luật.

Đối với Lê Hoài T, là người đi cùng với V đến nhà anh T tìm anh T để đánh, nhưng đứng ở ngoài, không tham gia vào việc đập cửa, ném đá vào nhà anh T, không liên quan đến hành vi Đoàn Ngọc V gây thương tích cho chị N, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là đúng pháp luật.

Đối với đối tượng Nguyễn Trường G, T, và hai người bạn của T,  qua xác minh G không có mặt tại địa phương, đối tượng T và hai người bạn của T chưa xác định được nhân thân lai lịch. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.

* Về vật chứng vụ án: 01 cục đá kích thước (10 x 17)cm; 01 viên gạch 06 lỗ màu đỏ; 01 khúc cây gỗ dài 68cm, đường kính 05cm và 01 khúc cây gỗ dài 79cm, đường kính 04cm không có giá trị và không sử dụng được;  áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy.

* Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, người bị hại Phạm Thị N và chị Trần Thị Thu T thỏa thuận; chị T có nghĩa vụ bồi thường cho chị N với tổng số tiền là 6.000.000 đồng.  Áp dụng khoản 1 Điều 42 Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 584, Điều 585, đoạn 2 khoản 2 Điều 586 và Điều 590 Bộ luật dân sự, Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận của chị N và chị T; chị T có nghĩa vụ bồi thường cho chị N số tiền 6.000.000 đồng.

* Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, chị Trần Thị Thu T phải chịu phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đoàn Ngọc V (Ú) phạm tội “Cố ý gây thương tích”

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 104; điểm h, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46, Điều 47, Điều 69, khoản 4 Điều 71, khoản 1 Điều 74 Bộ luật hình sự; khoản 6 Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đoàn Ngọc V (Ú) 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành án hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 28/8/2017.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 42 Bộ luật hình sự; khoản1 Điều 584, Điều 585, đoạn 2 khoản 2 Điều 586 và Điều 590 Bộ luật dân sự; ghi nhận sự thỏa thuận, chị  Trần Thị Thu T có nghĩa vụ bồi thường cho chị Phạm Thị N số tiền 6.000.000 đồng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà bên phải thi hành án không thi hành thì phải trả lãi của số tiền chưa thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự.

3. Về vật chứng:  Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ 01 viên gạch 06 lỗ; 02 khúc cây gỗ, 01 cục đá.

Đặc điểm nhận dạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơquan cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai lập ngày 20/7/2017.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội. Buộc bị cáo Đoàn Ngọc V (Ú) phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, bà Trần Thị Thu T phải chịu  300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm sung vào công quỹ nhà nước.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, Người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình lên Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

393
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2017/HSST ngày 26/09/2017 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:30/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Pưh - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về