Bản án 300/2019/HS-PT ngày 09/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 300/2019/HS-PT NGÀY 09/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 09 tháng 07 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 228/2019/HSPT ngày 30 tháng 05 năm 2019 đối với bị cáo Phạm Ngọc V do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 91/2019/HS-ST ngày 04-04-2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo: Phạm Ngọc V; sinh năm 2000 tại tỉnh Thái Bình; trú tại: ấp 1, xã L1, huyện L2, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 11/12; con ông Phạm Văn D và con bà Nguyễn Thị T; hoàn cảnh gia đình: bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2018 (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Ông Trần Văn H, sinh năm 1982; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 165/15A đường T1, khu phố 2, phường T2, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Ngọc V là người làm thuê cho anh Trần Văn H và sống tại nhà của anh H tại địa chỉ số 165/15A, đường T1, khu phố 2, phường T2, quận, Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 10/12/2018, lợi dụng lúc anh H đi ra khỏi nhà, V đã lên lầu 1 lấy chìa khóa để tủ trong giày rồi mở cửa phòng anh H. V thấy két sắt không có khóa nên V mở cửa két sắt lấy trộm 40.000.000 đồng rồi khóa cửa phòng lại và đi ra ngoài. Đến ngày 11/12/2018, V đến cửa hàng bán điện thoại trên đường A, quận Đ mua 01 điện thoại di động hiệu XR giá 25.000.000 đồng, số tiền còn lại V rủ bạn bè đi bar chơi và tiêu xài cá nhân. Đến khoảng 08 giờ ngày 24/12/2018, V tiếp tục lấy chìa khóa trong tủ giày mở cửa phòng anh H lục tìm tài sản, lúc này chị Trần Thị H1 là vợ của anh H phát hiện và cho V thôi việc. Ngày 26/12/2018, anh H trình báo đến công an phường Tam Bình, quận Thủ Đức. Đến ngày 27/12/2018, V đến công an thị trấn Phú Thiện, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai đầu thú và giao nộp điện thoại di động XR, số tiền 1.370.000 đồng.

Ngoài ra, V còn tự khai nhận những lần thực hiện trộm cắp tiền của anh H trước đó như sau:

1/ Lần thứ nhất: đầu tháng 8/2018, V vào phòng của anh H lấy trộm 18.000.000 đồng trong chiếc ví của anh H.

2/ Lần thứ 2: khoảng 08 giờ trong ngày cuối tháng 8/2018, V mở cửa phòng của anh H và lấy trộm trong ví của anh H 10.000.000 đồng.

3/ Lần thứ 3: vào một ngày trong tháng 9/2018, V tiếp tục mở cửa phòng của anh H và lấy trộm trong ví của anh H 10.000.000 đồng.

4/ Lần thứ 4: khoảng 08 giờ ngày 02/12/2018, V mở cửa phòng của anh H lấy trộm 01 nhẫn vàng 18k trọng lượng 04 chỉ vàng, lấy trộm 5.000.000 đồng trong ngăn kéo rồi khóa cửa ra ngoài, sau đó V bán nhẫn với giá 7.500.000 đồng rồi tiêu xài cá nhân.

Theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 102/2019/HS-ST ngày 22-4-2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b,s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Phạm Ngọc V 04 (bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/12/2018 Ngoài ra, bản án còn ghi nhận về việc bồi thường dân sự; tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 06/5/2019 bị cáo Phạm Ngọc V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Phạm Ngọc V khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản án sơ thẩm đã thể hiện, đồng thời giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị hại Trần Văn H yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: sau khi phân tích hành vi của bị cáo theo nội dung của bản án sơ thẩm, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo Phạm Ngọc V về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, gia đình bị cáo đã bồi thường thêm cho bị hại Trần Văn H số tiền 20.000.000 đồng và tại phiên tòa bị hại cũng yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tuy nhiên mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Phạm Ngọc V là người làm thuê cho anh Trần Văn H và sống tại nhà của anh H tại địa chỉ số 165/15A, đường T1, khu phố 2, phường T2, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 10/12/2018, lợi dụng lúc anh Hiếu đi ra khỏi nhà, V đã lên lầu 1 lấy chìa khóa để trong tủ giày rồi mở cửa phòng anh H thì V thấy két sắt không có khóa nên lấy trộm 40.000.000 đồng, rồi V đi mua 01 điện thoại di động hiệu XR giá 25.000.000 đồng, số tiền còn lại thì tiêu xài cá nhân. Đến khoảng 08 giờ ngày 24/12/2018, V tiếp tục lấy chìa khóa trong tủ giày mở cửa phòng anh H lục tìm tài sản, lúc này chị Trần Thị H1 là vợ của anh H phát hiện nên cho V thôi việc.

Ngày 26/12/2018, anh H trình báo sự việc đến công an phường Tam Bình, quận Thủ Đức, và sau đó vào ngày 27/12/2018, V đến công an thị trấn Phú Thiện, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai đầu thú, đồng thời giao nộp điện thoại di động XR, số tiền 1.370.000 đồng. Ngoài ra, V còn tự khai nhận trong khoảng thời gian từ đầu tháng 8 đến đầu tháng 12 năm 2018, V còn thực hiện trộm cắp tiền của anh H trước đó gồm 04 lần.

Qua khai nhận và kết quả định giá thì tổng tài sản mà V đã chiếm đoạt của anh H là 93.596.000 đồng.

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bị cáo Phạm Ngọc V về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Ngày 22/04/2019, Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 06/5/2019 bị cáo Phạm Ngọc V làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Xét thấy đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên hợp lệ.

[3] Xét nội dung kháng cáo:

Bị cáo Phạm Ngọc V đã nhiều lần thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại tổng cộng là 93.596.000 đồng. Bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì động cơ tư lợi mà bị cáo vẫn thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ nên cần có mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến hành vi phạm tội, tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh và nhân thân của bị cáo.

Trong vụ án này, bị cáo đã liên tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nên bị cáo phạm tội với tình tiết tăng nặng là “phạm tội hai lần trở lên”. Tuy nhiên bị cáo cũng có tình tiết giảm nhẹ là có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội thì bị cáo đã đầu thú và các tình tiết này thì Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng và tuyên phạt bị cáo mức án 04 năm tù là phù hợp.

Tại phiên tòa phúc thẩm, gia đình bị cáo cung cấp thêm tình tiết là hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, thuộc hộ nghèo, cha bị cáo bị bệnh mất khả năng lao động, mẹ bị bệnh nan y, bị cáo là lao động chính phải đi làm lo cho gia đình (có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã L1, huyện L2, tỉnh Đồng Nai ngày 09/5/2019). Đồng thời mặc dù bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền thiệt hại còn lại là 56.000.000 đồng nhưng gia đình bị cáo vẫn tự nguyện bồi thường thêm số tiền 20.000.000 đồng cho phía bị hại và tại phiên tòa phúc thẩm bị hại có yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cần áp dụng thêm các tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ như đã nêu ở trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Lập luận trên đây cũng là căn cứ để không chấp nhận lời đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Ngọc V và sửa bản án sơ thẩm.

Xử phạt: Phạm Ngọc V 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 27/12/2018.

Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo không phải nộp.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 300/2019/HS-PT ngày 09/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:300/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về