Bản án 297/2020/HNGĐ-ST ngày 04/06/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 297/2020/HNGĐ-ST NGÀY 04/06/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 04 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 818/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2020/QĐXX-ST ngày 23 tháng 4 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 36/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Huỳnh Kim G, sinh năm: 1984 (có mặt) Địa chỉ: ấp ĐB, xã NB, huyện CT, tỉnh Tiền Giang

2/ Bị đơn: Ngô Văn T, sinh năm: 1982 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp ĐB, xã NB, huyện CT, tỉnh Tiền Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 10/12/2019 và lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Huỳnh Kim G trình bày:

Chị và anh Ngô Văn T chung sống với nhau vào năm 2003, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Thành, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang vào năm 2006. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2018 thì có mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T không lo làm ăn và thường tụ tập uống rượu, cờ bạc nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2018, đến nay cũng không hàn gắn được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết:

-Về quan hệ hôn nhân: cho chị được ly hôn với anh Ngô Văn T.

-Về con chung: có 02 con chung tên Ngô Hồng Q, sinh ngày 22/12/2005 và Ngô Phước T1, sinh ngày 12/7/2016. Chị G yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng hai con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng.

-Về tài sản chung: Không có.

-Về nợ chung: Không có Anh Ngô Văn T đã được tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cũng như các văn bản tố tụng khác nhưng không có văn bản nêu ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của Chị G.

Tại phiên tòa, Chị G vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn, nuôi con như đã trình bày. Anh T vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng; đối với đương sự: nguyên đơn thực hiện đúng, bị đơn thực hiện chưa đúng pháp luật tố tụng dân sự.

Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho Chị G được ly hôn với anh T. Về con chung, giao cho Chị G được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con; tài sản chung: không yêu cầu giải quyết; nợ chung: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Ngô Văn T được triệu tập dự phiên tòa hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Kim G và anh Ngô Văn T chung sống với nhau vào năm 2003, có đăng ký kết hôn vào ngày 08/02/2006 tại UBND xã Bình Thành, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 05/TP/2006 quyển số 01, như vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Theo Chị G trình bày tại phiên tòa thì vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2018 thì có mâu thuẫn do anh T không lo làm ăn, thường xuyên tụ tập uống rượu, cờ bạc dẫn đến thiếu tiền nên vợ chồng thường cãi nhau, cũng có khi xô xát nhau. Chị và anh T đã sống ly thân từ cuối năm 2019 đến nay. Nay chị không còn tình cảm với anh T nên yêu cầu được ly hôn.

Xét thấy, Chị G xin ly hôn với anh T nhưng anh T không có văn bản nêu ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của Chị G dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần. Tại phiên tòa hôm nay Chị G vẫn cương quyết xin được ly hôn, anh T không đến Tòa án và vắng mặt không lý do điều này thể hiện anh T không có ý chí mong muốn tình cảm vợ chồng hàn gắn mà để mặc cho Chị G quyết định.

Xét, về tình nghĩa vợ chồng thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau và sống chung với nhau nhưng hiện giữa Chị G và anh T không còn tình nghĩa vợ chồng, hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó nay Chị G xin ly hôn với anh T là có cơ sở, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị G và anh T có 02 con chung tên Ngô Hồng Q, sinh ngày 22/12/2005 và Ngô Phước T1, sinh ngày 12/7/2016. Chị G yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng hai con.

Xét, cháu Q và cháu T1 đã sinh sống ổn định với Chị G kể từ ngày anh chị mâu thuẫn và sống ly thân nhau, cháu Q trên 7 tuổi và có nguyện vọng tiếp tục sống với mẹ. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con, nơi sinh sống của con và nguyện vọng của con, Hội đồng xét xử cần tiếp tục giao hai con cho Chị G tiếp tục nuôi dưỡng.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị G không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về tài sản: Chị G trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về nợ chung: Chị G trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Chị G phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Xét ý kiến và đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát đúng pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 147; điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Huỳnh Kim G được ly hôn với anh Ngô Văn T.

2. Về con chung: giao chị Huỳnh Kim G tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung tên Ngô Hồng Q, sinh ngày 22/12/2005 và Ngô Phước T1, sinh ngày 12/7/2016. Anh Ngô Văn T có quyền, nghĩa vụ tới lui thăm, chăm sóc con chung mà không ai có quyền cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: anh Ngô Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Huỳnh Kim G không yêu cầu.

4. Về án phí: Chị Huỳnh Kim G chịu là 300.000đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng tại biên lai số 01669 ngày 16/12/2019 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xem như đã nộp xong án phí.

5. Về quyền kháng cáo: chị Huỳnh Kim G có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Ngô Văn T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 297/2020/HNGĐ-ST ngày 04/06/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:297/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về