Bản án 296/2020/HS-PT ngày 29/09/2020 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 296/2020/HS-PT NGÀY 29/09/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 29 tháng 09 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng nam, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 325/2020/TLPT-HS ngày 11/9/2020 đối với bị cáo Dương Văn T về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 35/2020/HS-ST ngày 28/07/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Dương Văn T; sinh ngày 05 tháng 8 năm 1968, tại huyện P, tỉnh Quảng Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chổ ở: Khối phố T, thị trấn P, huyện P, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: Lớp 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; cha là ông Dương B (đã chết) mẹ là bà Nguyễn Thị L (đã chết); Vợ Nguyễn Thị Lệ T, sinh năm 1972; bị cáo có 04 người con, con lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất sinh năm 2005;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 08/12/1998, Dương Văn T bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xử phạt 12 tháng tù giam về tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất độc”, đã chấp hành xong bản án ngày 13/9/1999.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 10/6/2019, hiện đang tạm giạm tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Nam; có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Dương Văn T: Luật sư Nguyễn Thành Q – Văn phòng Luật sư N, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Nam, bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Đa chỉ: tỉnh Quảng Nam; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm t t như sau:

Khong 13 giờ 00 phút, ngày 18/02/2019, Dương Văn T đẩy xe rùa chở 01 cái búa, 01 con rựa, 16 cọc tre đến bờ ruộng của T ở tại thôn Đ, xã T, huyện P để đóng cọc tre vào mép bờ ruộng nhằm giữ cho bờ ruộng không bị lở đất. Bờ ruộng của T giáp ranh với bờ ruộng của ông Đặng Văn T1, giữa hai bờ ruộng được ngăn cách bởi mương nước rộng 01m, T đóng cọc tre đến 17 giờ 00 thì hết cọc tre nên T đến bụi tre cách đó khoảng 200m chặt thêm tre làm cọc để đóng. Khi đang chặt tre thì con rựa của T bị gãy cán, không chặt được nữa. T cầm con rựa bị gãy cán và cán rựa bị gãy quay lại bờ ruộng của mình. Lúc này, có bà Ung Thị Thu T là vợ của ông Đặng Văn T1 đi đến ruộng lúa của mình nhìn thấy hàng cọc tre mà T v a đóng lấn ra mương nước chảy giữa hai bờ ruộng nên bà T nói với T “sao đóng cọc tre làm mương nước nhỏ, nước chảy không hết, làm lở bờ ruộng tôi”, T nói lại “tao đóng đó làm chi tao” thì giữa bà T và T cãi nhau.

Khong 05 phút sau, ông Đặng Văn T1 trên đường đi làm về ngang qua bờ ruộng nhìn thấy sự việc, ông Đặng Văn T1 đi xuống mương nước, vạch xem hàng cọc tre T v a đóng và nói “sao ông đóng hàng cọc qua bờ mương tôi”, T trả lời “đóng rứa lấn đâu mà lấn”, nghe T nói, ông T1 cúi người xuống mương nước chỉ vào hàng cọc tre và nói “chứ cái chi đây mà không lấn” thì T nói “ta giết mi luôn coi chừng tau”. Trong lúc ông T1 đang lom khom người chỉ tay vào hàng cọc tre thì T đang đứng trên bờ mương nước ném cán rựa bị gãy lên đám ruộng của T, đồng thời tay phải cầm con rựa bị gãy cán chém một nhát trúng vào phía sau cổ ông T1 làm ông T1 ngã sấp mặt xuống mương nước bất tỉnh, rồi T bỏ đi. Sau đó T ném con rựa xuống đám ruộng của ông Nguyễn Minh G, gần đám ruộng của T rồi T về nhà, ông T1 được mọi người đưa đi cấp cứu và điều trị tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Nam.

* Tại Bản kết luận giám định thương tích số 74/GĐTT.19 ngày 14/3/2019 của Trung tâm Giám định Pháp y tỉnh Quảng Nam, đã mô tả chi tiết và kết luận về thương tích của ông Đặng Văn T1 cụ thể như sau:

- Thương tích chi tiết: Vùng cổ phía sau, ngang qua đốt sống cổ C6, C7 chếch về bên phải có vết rách da, cơ và xát da đã lành sẹo dài 6,5cm, rộng 0,1cm (vết rách da dài 5,5cm); vết thương do vật s c cạnh gây nên, hướng t sau ra trước, chếch t dưới lên trên, t phải sang trái; bệnh nhân còn đau vùng cổ và vai gáy bên phải, vận động gập, ngửa và xoay cổ sang bên được nhưng còn đau, động tác khép, dạng khớp vai phải được nhưng còn hạn chế, gấp khớp khuỷu phải hạn chế nhiều, gấp, ngửa khớp cổ tay phải hạn chế, bàn tay phải cầm n m chưa được, đối chiếu ngón cái với các ngón khác hạn chế, bàn tay phải còn phù nề do rối loạn dinh dưỡng da; mất cảm giác nông cẳng bàn tay phải, cảm giác sâu còn; teo nhẹ lô cơ vùng cánh tay và cẳng tay phải so với bên trái, cơ lực cánh tay phải 3/5, cẳng tay 2/5.

- Kết luận: Tổn thương chủ yếu hiện tại còn thấy được ở trên bệnh nhân là vết rách da, cơ và xát da như đã nêu trên; vết thương vùng cổ - gáy bên phải gây gãy gai sau cột sống cổ C4, C5 chèn ép đám rối thần kinh cánh tay bên phải, liệt cẳng bàn tay phải. Tỷ lệ thương tích tại thời điểm hiện tại là 40% Đề nghị bệnh nhân sau khi ra viện 45 ngày đến giám định bổ sung (lần 2) để đánh giá lại chức năng vận động và cảm giác tay bên phải. (BL: 61-63).

* Tại Bản kết luận giám định thương tích bổ sung số 36/GĐTT.20 ngày 07/02/2020 của Trung tâm Giám định pháp y Quảng Nam đã mô tả chi tiết và kết luận tỷ lệ thương tích của ông Đặng Văn T1, cụ thể như sau:

- Thương tích chi tiết: Vùng cổ phía sau, ngang qua đốt sống cổ C6, C7 chếch về bên phải có vết rách da, cơ và xát da đã lành sẹo dài 6,5cm, rộng 0,1cm; vết thương do vật s c cạnh gây nên, hướng t sau ra trước, chếch t dưới lên trên, t phải sang trái; bệnh nhân còn đau nhẹ vùng cổ và vai gáy bên phải, vận động gập, ngửa và xoay cổ sang bên được; động tác khép, dạng khớp vai phải được nhưng còn hạn chế, gấp khớp khuỷu phải được; gấp, ngửa khớp cổ tay và động tác cầm n m các ngón tay phải được; đối chiếu ngón cái với các ngón khác được; teo nhẹ lô cơ vùng cánh tay và cẳng tay phải so với bên trái, cơ lực cánh tay và cẳng tay phải 4/5.

- Kết luận: Tn thương chủ yếu hiện tại còn thấy được ở trên bệnh nhân là vết rách da, cơ và xát da như đã nêu trên. Vết thương vùng cổ - gáy bên phải gây gãy gai sau cột sống cổ C4, C5, chèn ép đám rối thần kinh cánh tay bên phải, liệt cẳng bàn tay phải đã được điều trị tạm ổn. Tỷ lệ thương tích tại thời điểm hiện tại là 31% (BL: 66-70).

* Tại Công văn số 103 ngày 20/9/2019 của Trung tâm Giám định Pháp y Quảng Nam về việc xác định lực tác động dẫn đến vết thương của bị hại Đặng Văn T1: Vùng cổ phía sau, ngang qua đốt sống cổ C6, C7 chếch về bên phải có vết rách da, cơ và xát da đã lành sẹo dài 6,5cm, rộng 0,1cm. Vết thương do vật s c cạnh gây nên, lực tác động mạnh, hướng t sau ra trước, chếch t dưới lên trên, t phải sang trái, tại vị trí của vết thương này có thể dẫn đến tổn thương lần lượt gai sau cột sống cổ, tủy sống cổ và gây liệt bán phần hoặc hoàn toàn phía dưới nơi tổn thương mà tủy sống cổ chi phối, nếu tủy sống cổ tổn thương nhẹ thì liệt tay, nặng có thể dẫn đến liệt tứ chi, nặng hơn nữa có thể liệt cơ hô hấp làm bệnh nhân tử vong. Ngoài ra, vùng cổ còn có bó mạch cảnh, đây là động, tĩnh mạch lớn, nếu tổn thương bó mạch cảnh dẫn đến chảy máu, mất máu cấp cũng có thể dẫn đến tử vong khi không được cấp cứu kịp thời”. (BL: 75).

Trong quá trình điều tra, lời khai của bị cáo Dương Văn T và người bị hại Đặng Văn T1 có sự mâu thuẫn về việc bị cáo T dùng rựa chém vào vùng cổ của bị hại T1. Bị cáo T khai rằng: Khi ông T1 xuống mương nước nhổ cọc tre của mình, thì bị cáo T xuống mương nước hất tay ông T1 ra, ngay lúc đó ông T1 quay lại dùng hai tay ôm ngang hông T t phía sau lưng, T dùng tay phải n m phần cán rựa vung phần lưỡi rựa ra phía sau trúng vào phía sau cổ ông T1 rồi bỏ chạy qua đám ruộng gần đó. Còn bị hại T1 khai: Khi ông đang đứng dưới mương nước, tư thế cúi người xuống sát cọc tre mà bị cáo T mới đóng, T đứng trên bờ ruộng bên trái ông T1 cách khoảng 01m, cầm rựa chém 01 nhát trúng vùng gáy của ông T1 khiến ông T1 ngã sấp xuống bất tỉnh. Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam tiến hành đối chất nhưng bị cáo Dương Văn T và bị hại Đặng Văn T1 vẫn giữ nguyên lời khai của mình. (BL: 177- 178; 179-186; 188-196).

+ Tại Công văn số 66/GĐ PY ngày 03/6/2019 của Trung tâm Giám định pháp y tỉnh Quảng Nam, nhận định: “Qua nghiên cứu so sánh và đối chiếu giữa vật gây thương tích trên người bệnh nhân Đặng Văn T1 và tang vật là 01 (một) con rựa như mô tả ở trên cùng với lời khai của ông T1 và Dương Văn T. Chúng tôi xét thấy thương tích ở vùng cổ là do vật sắc cạnh gây nên, có chiều hướng từ sau ra trước, chếch từ dưới lên trên, từ phải sang trái, theo lời khai của ông Đặng Văn T1 thì có nhiều khả năng phù hợp với thương tích nêu trên hơn”. (BL: 73) + Ngày 09/12/2019, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam có Văn bản yêu cầu Trung tâm Giám định pháp y tỉnh Quảng Nam giải thích về cơ chế hình thành vết thương của bị hại Đặng Văn T1 theo hai tình huống: Tình huống 1: T đứng thẳng trên bờ ruộng và tình huống 2: T đứng dưới mương nước gây thương tích cho bị hại T1.

- Ngày 16/12/2019, Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Nam có Công văn số 141 nhận định về cơ chế hình thành vết thương của bị hại T1 với nội dung: “Cả hai tình huống này đều mang tính ước lượng, việc nhận định đòi hỏi độ chính xác cao nên Trung tâm Pháp y khó đưa ra kết quả nhận định chính xác được, để đảm bảo tính chính xác và khoa học, đề nghị Cơ quan điều tra cho dựng lại hiện trường và mời cơ quan chuyên môn chứng kiến để có nhận định đúng”. (BL: 80-81).

- Ngày 08/01/2020, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam tiến hành thực nghiệm điều tra đối với vụ án có mời Giám định viên của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Nam (ông Trần Dương Thuận – Giám định viên Trưởng) tham dự chứng kiến để có nhận định chính xác về cơ chế hình thành vết thương trên vùng gáy của bị hại Đặng Văn T1 để làm căn cứ xử lý vụ án đúng pháp luật. Quá trình thực nghiệm hiện trường theo tình huống lời khai của bị cáo Dương Văn T và lời khai của bị hại Đặng Văn T1.

Căn cứ vào kết quả thực nghiệm, Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Nam ban hành Văn bản số 09/GĐPY ngày 14/01/2020 xác định: Theo lời khai của Dương Văn T là đứng dưới mương nước quơ rựa trúng vào cổ của ông T1 là không phù hợp với cơ chế hình thành vết thương trên cổ của bị hại Đặng Văn T1 nên không có khả năng xảy ra; theo lời khai của ông T1 về việc T đứng trên bờ dùng rựa chém xuống trúng vào vùng cổ ông T1 là có căn cứ. (BL: 88).

* Vật chứng thu giữ trong vụ án:

- 01 (một) con rựa có cán bằng gỗ tre đã bị gãy dài khoảng 10cm, trên cán rựa có 02 (hai) khuy s t tròn; lưỡi rựa bằng kim loại dài khoảng 26,5cm, có 01 đầu cong;

01 (một) đoạn gỗ tre hình trụ tròn có kích thước 31x3.5 (cán rựa gãy), 02 (hai) đôi dép và 01 khẩu trang, 02 (hai) đoạn tre (cọc tre), 01 đĩa CD.

* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại kê khai chi phí điều trị thương tích, bồi dưỡng, ngày công lao động, công chăm sóc với số tiền 88.630.370 đồng, gia đình bị cáo Dương Văn T đã bồi thường một phần các khoản chi phí điều trị thương tích cho người bị hại là 16.500.000 đồn, số tiền còn lại 72.130.370 đồng làm tròn là 72.130.000 đồng, người bị hại yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường.

Bản cáo trạng số 32/CT-VKS-P2 ngày 23 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam truy tố bị cáo Dương Văn T về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Ti bản án hình sự sơ thẩm số 35/2020/HSST ngày 28/7/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Dương Văn T, phạm tội “Giết người”.

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15, khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt: Bị cáo Dương Văn T 09 (chín) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ (ngày 10-6-2019).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 07/8/2020 bị cáo Dương Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên Tòa bị cáo thừa nhận hậu quả thương tích 31% của bị hại là do bị cáo dùng rựa gây ra nhưng không phải tư thế đứng chém như cáo trạng của Viện kiểm sát và án sơ thẩm. Luật sư Nguyễn Thành Q đề nghị hội đồng xét xử hoãn phiên tòa cho giám định lại cơ chế hình thành vết thương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T thừa nhận: Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 18/02/2019, do mâu thuẫn nhỏ t việc đóng cọc tre ruộng liền kề dẫn đến xảy ra mâu thuẫn và giằng co nhau nên Dương Văn T dùng con rựa (có cán bằng gỗ tre đã bị gãy dài khoảng 10cm, trên cán rựa có 02 khuy sắt tròn; lưỡi rựa bằng kim loại dài khoảng 26,5cm, có 01 đầu cong) là hung khí nguy hiểm chém một nhát vào vùng trọng yếu trên cơ thể (vùng cổ phía sau) của bị hại Đặng Văn T1. Hành vi của bị cáo T là đặc biệt nguy hiểm, hậu quả T1 chỉ bị thương tích 31% là do được cứu chữa kịp thời và nằm ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo. Luật sư Nguyễn Thành Quý đề nghị hội đồng xét xử hoãn phiên tòa cho giám định lại cơ chế hình thành vết thương là không cần thiết, bởi vì bị cáo thừa nhận thương tích của bị hại là do bị cáo dùng rựa gây ra. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận, hành vi của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội “giết người” với tình tiết định khung tăng nặng “có tính chất côn đồ” được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[5] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, chỉ vì sự mâu thuẫn nhỏ nhặt, bị cáo dùng hung khí nguy hiểm chém vào vùng cổ phía sau của bị hại, việc bị hại không chết là do được người thân đưa đi cứu chữa kịp thời và nằm ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm tới tính mạng, sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ, cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15, khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo 09 năm tù là đã xem xét xử dưới mức khởi điểm của khung hình phạt.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo không cung cấp được tình tiết nào mới. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị y án sơ thẩm là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận, giữ nguyên mức án sơ thẩm. Cần thiết cách phải cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[9] Về án phí: Bị cáo Dương Văn T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm thẩm do kháng cáo không được chấp nhận

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Dương Văn T giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Dương Văn T, phạm tội “Giết người”.

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15, khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt: Bị cáo Dương Văn T 09 (chín) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ (ngày 10-6-2019).

2. Án phí HSPT: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 296/2020/HS-PT ngày 29/09/2020 về tội giết người

Số hiệu:296/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về