Bản án 296/2019/HS-ST ngày 08/08/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 296/2019/HS-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 08 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 349/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3274/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Võ Thành T (tên gọi khác: không có); giới tính: nam; sinh năm: 1978, tại tỉnh Long An; HKTT: Số 72/11 ĐH, Phường A, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Số 167 ấp PT, xã TPL, huyện A, tỉnh Long An; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Nuôi tôm; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Văn Đ và bà Huỳnh Thị K; có vợ tên Trương Cẩm T và có 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2006;

Tiền án:

+ Ngày 09/12/2005, bị cáo bị Tòa án nhân dân Quận T0, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 09 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản ản số 175/2005/HSST;

+ Ngày 25/02/2009, bị cáo bị Tòa án nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản ản số 40/2009/HSST. Ngày 31/8/2011 chấp hành xong hình phạt tù.

+ Ngày 14/11/2013, bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản ản số 286/2013/HSST. Ngày 30/01/2017 chấp hành xong hình phạt tù.

Tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 23/11/2001 bị Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số 972/QĐ-UB đưa vào Cơ sở giáo dục Huy Khiêm thời hạn 24 tháng kể từ ngày 05/12/2011.

Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 06/11/2018. (Có mặt tại phiên tòa)

- Bị hại: Ông Hasegawa N, sinh năm: 1973;

Quốc tịch: Nhật Bản; Hộ chiếu số: TR6002943;

Tm trú tại: Số 8A NBK, phường S, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 15 phút, ngày 05/11/2018, Võ Thành T điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, gắn biển số 59F1-029.05 đi từ đường Hoàng Sa rẽ vào đường NĐC, Quận T. Khi đến trước nhà số 02 đường NĐC, phường S, Quận T, Võ Thành T nhìn thấy người đàn ông ngoại quốc (là bị hại Hasegawa N, quốc tịch Nhật Bản) đang đi bộ dưới lòng đường NĐC, phía trước, cùng chiều, hướng từ Hoàng Sa đến đường NBK, trên tay cầm điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng để trong 01 bao da điện thoại màu đen (trong bao da còn có 03 thẻ tín dụng và 01 thẻ từ) nên nảy sinh ý định chiếm đoạt nhằm bán lấy tiền tiêu xài. T điều khiển xe mô tô áp sát bên trái ông Hasegawa N rồi dùng tay phải giật điện thoại, bỏ vào túi áo ngực bên trái rồi tăng ga tẩu thoát. Cùng lúc, có người đàn ông (không rõ lai lịch) điều khiển xe mô tô hiệu Honda SH đang tham gia giao thông thì phát hiện sự việc T cướp giật tài sản nên đã đuổi theo T. Đến trước nhà số 384 ĐBP, Phường G, quận Y thì T bị người đàn ông và quần chúng nhân dân khống chế, đưa T cùng vật chứng và phương tiện phạm tội đến Công an Phường G, quận Y tiếp nhận xử lý.

Sau khi bị chiếm đoạt tài sản, ông Hasegawa N đến Công an Phường G, quận Y trình báo. Cùng ngày, Công an quận Y chuyển hồ sơ kèm vật chứng và phương tiện phạm tội đến Công an Quận T xử lý theo thẩm quyền.

Tại Kết luận định giá tài sản số 359/KL-HĐĐGTS ngày 17/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận T đã xác định: “Điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng, số Imei 356957063577168 có trị giá 6.900.000 đồng, bao da điện thoại màu đen trị giá 50.000 đồng”.

Tại bản Cáo trạng số 251/CT-VKS-P2 ngày 14/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Võ Thành T về tội“Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Võ Thành T khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng theo nội dung bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố, sau khi luận tội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị áp dụng các điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo mức án từ 5 năm đến 6 năm tù.

Về vật chứng, đề nghị: Tịch thu sung quỹ nhà nước chiếc xe gắn máy biển số 59F1-029.05.

Riêng phần dân sự do bị hại không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cở sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về nội dung, Hội đồng xét xử đánh giá như sau:

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận định giá cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ… Đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 19 giờ 15 phút, ngày 05/11/2018, tại trước nhà số 02 đường NĐC, phường S, Quận T, Võ Thành T đã lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu, điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 59F1-029.05, công khai áp sát vào ông Hasegawa N, bất ngờ và nhanh chóng thực hiện hành vi chiếm đoạt điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng để trong 01 bao da điện thoại màu đen của ông Hasegawa N (trong bao da còn có 03 thẻ tín dụng và 01 thẻ từ), rồi nhanh chóng tẩu thoát.

Tại Kết luận định giá tài sản số 359/KL-HĐĐGTS ngày 17/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận T đã xác định: “Điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng, số Imei 356957063577168 có trị giá 6.900.000 đồng, bao da điện thoại màu đen trị giá 50.000 đồng”.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Võ Thành T đã cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo là liều lĩnh táo bạo, rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương, bị cáo đã phạm tội đối với du khách nước ngoài, làm ảnh hưởng xấu đến môi trường du lịch và hình ảnh của đất nước Việt Nam. Bị cáo sử dụng xe gắn máy làm phương tiện cướp giật tài sản, trên đường phố nơi đông người tham gia giao thông, đe dọa đến sự an toàn về tính mạng, sức khoẻ của người khác, là thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bên cạnh đó, bị cáo đã từng có 3 tiền án, chưa được xóa án tích đến nay không chịu cải sửa bản thân, lại tiếp tục phạm tội là thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo điểm i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Do đó cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét cần xử phạt nghiêm đối với bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tài sản đã trả lại cho người bị hại nên chưa gây thiệt hại về tài sản, nên áp dụng điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[3] Các vấn đề khác:

* Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia 3310 màu xanh, số Imei: 356002086565120, bên trong có 01 sim điện thoại: xét đây là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo.

+ Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, gắn biển số 59F1-029.05, qua xác minh được biết:

Xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter, có số khung RLCE55P10EY403077, số máy 55P1403092, mang biển số 66P1-405.57 do ông Nguyễn Tuấn Hùng đứng tên chủ sở hữu, ông Hùng đã bán chiếc xe trên vào năm 2018, nay không rõ người mua xe.

Đi với biển số xe 59F1-029.05, là của xe mô tô hiệu Mangostin, do bà Nguyễn Thị Phúc Bình đứng tên chủ sở hữu, bà Bình đã bán chiếc xe trên vào năm 2013, nay không rõ người mua xe.

Cơ quan điều tra đã cho đăng báo để tìm chủ sở hữu hợp pháp, tuy nhiên đến nay vẫn không có ai đến nhận. Bị cáo khai nhận đây là xe bị cáo mua được của một người không rõ lai lịch tại Long An, khi mua xe không làm giấy tờ mua bán. Xét thấy đây là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

* Về trách nhiệm dân sự: ông Hasegawa N đã nhận lại điện thoại di động Iphone 6, bao da điện thoại màu đen, 03 thẻ tín dụng và 01 thẻ từ và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các điểm d, i khoản 2 Điều 171; các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Võ Thành T 4 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù được tính từ ngày 06/11/2018.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

+ Trả lại Võ Thành T: 01 điện thoại di động hiệu Nokia 3310 màu xanh, số Imei: 356002086565120, bên trong có 01 sim điện thoại;

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:

01 Xe mô tô hai bánh hiệu Yamaha, loại Exciter, có số khung RLCE55P10EY403077, số máy 55P1403092, màu xám đỏ.

01 biển số xe 59F1-029.05.

(Tang vật theo Quyết định chuyển vật chứng số 251/QĐ-VKS-P2 ngày 18/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; Biên bản giao nhận tang tài vật số 327/19 ngày 19/6/2019 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 1, 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

- Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được niêm yết hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 296/2019/HS-ST ngày 08/08/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:296/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về