TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 296/2017/HS-PT NGÀY 15/11/2017 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM
Ngày 15 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 143/2017/HSPT ngày 19/6/2017 đối với bị cáo Đặng Kim N, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 58/2017/HSST ngày 08/05/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ.
Bị cáo có kháng cáo: Đặng Kim N, sinh năm 1987.
Hộ khẩu thường trú: Ấp 3, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Chỗ ở hiện nay: Ấp 1, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai. Trình độ văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Buôn bán.
Con ông: Đặng Văn T, sinh năm 1969 và bà: Võ Thị C, sinh năm 1969. Chồng là: Nguyễn Văn C, sinh năm 1986 và có 01 con sinh năm 2007. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt tạm giam từ ngày 26/11/2016 đến ngày 05/12/2016. Hiện bị cáo được tại ngoại. Có mặt.
NHẬN THẤY
Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân và bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Đ, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đặng Kim N là chủ quán cà phê biển hiệu “B” tại ấp 1, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai. Do việc buôn bán ít khách nên từ đầu tháng 11/2016, N đã trực tiếp bán dâm và môi giới nhân viên ở quán khác bán dâm cho khách nhằm thu lợi bất chính.
Vào khoảng 21 giờ 40 ngày 26/11/2016, Nguyễn Hoàng L, sinh năm 1989 và Nguyễn Văn M, sinh năm 1994, cùng trú tại xã R, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai đến quán cà phê của N để uống nước. Trong lúc uống nước, M đặt vấn đề mua dâm và được N đồng ý với giá 300.000 đồng/lượt. Sau khi thỏa thuận xong, N dùng điện thoại di động có số sim liên lạc 0938767xxx gọi vào số điện thoạin 0966104xxx của Nguyễn Thị Bích N1, sinh năm 1997, trú tại ấp A, xã V, huyện C, tỉnh An Giang đến quán để cùng N đi bán dâm cho khách. Giữa N và N1 thỏa thuận, sau khi bán dâm thì N1 đưa cho N 50.000 đồng là tiền công môi giới.
Sau đó, cả 04 người đi đến nhà nghỉ “C” của anh Háu Chống H, sinh năm 1988, ở địa chỉ ấp 1, xã Q, huyện Đ để thực hiện hành vi mua bán dâm. Tại đây, N và L đi vào phòng số 1, M và N1 vào phòng số 4. Trong khi các đối tượng đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị lực lượng Công an huyện Đ kiểm tra, phát hiện.
Quá trình điều tra, Đặng Kim N còn khai nhận: Vào ngày 12/11/2016, N đã môi giới cho Nguyễn Thị Bích N1 bán dâm 01 lần cho khách tại nhà nghỉ “C” với giá 300.000 đồng. Sau khi bán dâm cho khách, N1 đã đưa cho N số tiền 50.000 đồng tiền công môi giới.
Tại bản án sơ thẩm số 58/2017/HSST ngày 08/5/2017, Tòa án nhân dân huyện Đ quyết định:
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 255, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999,
Xử phạt bị cáo Đặng Kim N 03 (ba) năm tù về tội “Môi giới mại dâm”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 26/11/2016 đến ngày 05/12/2016.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 17/5/2017, bị cáo Đặng Kim N có đơn kháng cáo xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phát biểu ý kiến:
Hành vi phạm tội của bị cáo N thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, xử phạt bị cáo 03 năm tù là phù hợp. Bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo nhưng không có căn cứ chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo,
XÉT THẤY
Vào các ngày 12/11/2016 và 26/11/2016, trong khi kinh doanh quán giải khát, bị cáo Đặng Kim N hai lần môi giới để Nguyễn Thị Bích N1 bán dâm cho khách nhằm thu lợi bất chính. Hành vi của bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử, kết tội “Môi giới mại dâm” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
Khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện. Tòa án cũng đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện giao nộp số tiền thu lợi bất chính; bị cáo đang nuôi con nhỏ. Từ đó, cấp sơ thẩm tuyên xử bị cáo mức hình phạt 03 năm tù là phù hợp với quy định của pháp luật.
Trước khi mở phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cung cấp phiếu siêu âm ngày 20/9/2017 của Bệnh viện đa khoa Đồng Nai, thể hiện bị cáo bị ung thư gan di căn và hạch ổ bụng, cần nhập viện điều trị nội trú.
Như vậy, bị cáo N bị bệnh hiểm nghèo, cần điều trị gấp nếu không sẽ nguy hại đến sức khỏe, tính mạng, đây là những tình tiết mới cần cân nhắc, xem xét. Trong khi đó, bị cáo có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này không có vi phạm pháp luật nào khác. Bị cáo có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cấp phúc thẩm áp dụng Điều 60 Bộ luật Hình sự và hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, cho bị cáo hưởng án treo, tạo điều kiện cho bị cáo chữa bệnh và tự cải tạo thành người tốt, thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.
Về án phí, do kháng cáo được chấp nhận, bị cáo Đặng Kim N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết lại.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248, điểm đ khoản 1 Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự,
QUYẾT ĐỊNH
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Kim N. Sửa bản án sơ thẩm số 58/2017/HSST ngày 08/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ.
Tuyên bố bị cáo Đặng Kim N phạm tội “Môi giới mại dâm”.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 255, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Xử phạt bị cáo Đặng Kim N: 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Đặng Kim N cho Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 296/2017/HS-PT ngày 15/11/2017 về tội môi giới mại dâm
Số hiệu: | 296/2017/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về