Bản án 295/2019/HS-ST ngày 08/08/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 295/2019/HS-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 08 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 369/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3275/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Quang V (tên gọi khác: không có); giới tính: nam; sinh năm: 1994, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 168/15/11 (số cũ: 168/32) NCT, phường NCT, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: không; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn M - sinh năm 1955 và bà Nguyễn Thị N - sinh năm 1957; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Ngày 15/12/2014, bị cáo Tòa án nhân dân Quận Q, TP.Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản ản số 293/2014/HSST, ngày 17/01/2017 chấp hành xong hình phạt tù. Tiền sự: không. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 03/02/2019. (Có mặt tại phiên tòa)

- Bị hại: Bà ZX, sinh năm: 1988; Quốc tịch: Trung Quốc; Hộ chiếu số: E84276745 Tm trú tại: 235 NVC, phường NCT, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt tại phiên tòa)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn H, sinh năm: 1968; Đăng ký thường trú: Số 22, đường 48, khu phố 6, phường HBC, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ, ngày 03/02/2019, Lê Quang V được một thanh niên tên Q (chưa xác định lai lịch) rủ cùng đi cướp giật tài sản của người đi đường để lấy tiền tiêu xài, V đồng ý. Q điều khiển xe mô tô hiệu Attila biển số 55X7-7193 chở V đi trên đường ĐQĐ, Quận Q theo hướng từ đường BV về đường TTT, khi đi đến giao lộ ĐQĐ – LL, phường Phạm Ngũ Lão, Quận Q, Q phát hiện chị ZX (Quốc tịch Trung Quốc) đang đứng trên lề đường LL chờ đèn đỏ (hướng từ Công viên 23/9 về trước nhà số 216 LL), trên tay chị ZX đang sử dụng chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X màu đen. Thấy vậy, Q nói cho V biết và quay đầu xe lại, để V ngồi phía sau quan sát. Khi vừa chạy qua mặt chị ZX, Q lại tiếp tục quay đầu xe hướng về đường NTN, nhanh chóng áp sát từ phía trước mặt chị ZX, để V ngồi sau dùng tay phải giật được chiếc điện thoại Iphone X màu đen nói trên, rồi tăng ga tẩu thoát về hướng giao lộ NTN – LL. Ngay lúc này, có anh Đỗ Hoàng Hưng P, Lê Thanh Đ thuộc tổ tuần tra của Đội cảnh sát giao thông Bến Thành và anh Phạm Phúc H thuộc Đội cảnh sát hình sự Công an Quận Q đang tuần tra, phát hiện truy đuổi. Đến giao lộ NTN – LL, Phường Phạm Ngũ Lão, Quận Q thì Q điều khiển xe mô tô nói trên, chở V bị té ngã xuống đường. V và Q bỏ xe, chạy bộ. V chạy bộ đến giao lộ LT T – PHT, phường BT, Quận Q thì bị bắt giữ cùng vật chứng, riêng Q chạy thoát.

Theo kết luận định giá tài sản số 311 ngày 10/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Thành phố Hồ Chí Minh thì chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X có giá trị là: 14.060.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 264/CT-VKS-P2 ngày 01/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Lê Quang V về tội“Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lê Quang V khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng theo nội dung bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố, sau khi luận tội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị áp dụng các điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo mức án từ 4 năm 6 tháng đến 5 năm 6 tháng tù.

Về vật chứng, đề nghị: Tiếp tục cho đăng báo để tìm chủ sở hữu đối với chiếc xe gắn máy hiệu Attila màu vàng biển số 55X7 – 7193, nếu quá thời hạn mà không có ai đến nhận thì tịch thu sung quỹ nhà nước.

Riêng phần dân sự do bị hại không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cở sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về nội dung, Hội đồng xét xử đánh giá như sau:

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận định giá cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ… Đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 12 giờ, ngày 03/02/2019, tại giao lộ ĐQĐ – LL, phường Phạm Ngũ Lão, Quận Q, Lê Quang V và tên Q (không rõ lai lịch) đã lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu, Q điều khiển xe mô tô hiệu Attila biển số 55X7-7193, công khai áp sát vào chị ZX, để cho V ngồi sau xe bất ngờ và nhanh chóng thực hiện hành vi chiếm đoạt điện thoại di động hiệu Iphone X màu đen, rồi cả hai nhanh chóng tẩu thoát.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lê Quang V đã cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo là liều lĩnh táo bạo, rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương, bị cáo đã phạm tội đối với du khách nước ngoài, làm ảnh hưởng xấu đến môi trường du lịch và hình ảnh của đất nước Việt Nam. Bị cáo sử dụng xe gắn máy làm phương tiện cướp giật tài sản, trên đường phố nơi đông người tham gia giao thông, đe dọa đến sự an toàn về tính mạng, sức khoẻ của người khác, là thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bên cạnh đó, bị cáo đã từng có 1 tiền án, chưa được xóa án tích đến nay không chịu cải sửa bản thân, lại tiếp tục phạm tội là thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo điểm i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Do đó cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét cần xử phạt nghiêm đối với bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tài sản đã trả lại cho người bị hại nên chưa gây thiệt hại về tài sản, nên áp dụng điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[3] Các vấn đề khác:

* Về xử lý vật chứng:

+ 01 (Một) chiếc xe gắn máy hiệu Attila màu vàng biển số 55X7 – 7193.

Kết quả xác minh nguồn gốc xe mô tô hiệu Attila màu vàng, có biển số 55X7- 7193, số máy: AD-021320, số khung: D9D-021320 nguyên thủy, do ông Lê Văn H, sinh năm 1968; địa chỉ: số 22 đường 48, khu phố, phường Hiệp Bình Chánh, Quận Thủ Đức, là chủ sở hữu. Tuy nhiên, ông Lê Văn H đã bán nhà đi khỏi địa phương, không xác định được nơi ở mới nên không ghi được lời khai.

Xét cần tiếp tục cho đăng báo để tìm chủ sở hữu hợp pháp, nếu quá thời hạn vẫn không có ai đến nhận thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

* Về trách nhiệm dân sự: bà ZX đã nhận lại điện thoại di động Iphone X và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các điểm d, i khoản 2 Điều 171; các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Lê Quang V 4 (bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Thời hạn tù được tính từ ngày 03/02/2019.

- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Cho đăng trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 03 (ba) tháng để tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý, sử dụng hợp pháp đối với chiếc xe gắn máy: 01 Xe mô tô hai bánh hiệu Attila, số loại VT3, biển số 55X7-7193, số máy: AD-021320, số khung: D9D-021320, màu vàng bạc.

Nếu quá thời hạn nêu trên mà không có ai đến nhận thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

(Tang vật theo Quyết định chuyển vật chứng số 218/QĐ-VKS-P2 ngày 02/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; Biên bản giao nhận tang tài vật số 382/19 ngày 23/7/2019 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 1, 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

- Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được niêm yết hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 295/2019/HS-ST ngày 08/08/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:295/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về