Bản án 29/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 29/2021/HS-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 4 năm 2021 trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 22/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Tống Phát Đ, tên gọi khác: không, sinh năm 1991 tại An Giang; Nơi cư trú: Tổ 4, Ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Tống Văn Th, sinh năm 1969 và bà Ngô Thị H, sinh năm 1972; Bản thân có vợ tên Lê Thị Cẩm T, có 01 con sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 06/6/2014 bị Toà án nhân dân quận B, TP. HCM xử phạt 03 năm 09 tháng tù về tội: “Môi giới mại dâm và Trộm cắp tài sản”, đến ngày 23/9/2015 chấp hành xong hình phạt; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2020 đến nay, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Phạm Văn B, sinh năm 1989 ĐKTT: Ấp P, xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

Tạm trú: Số 32 đường P, khu phố 5, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An (vắng mặt).

2. Nguyễn Như H1, sinh năm 1974 ĐKTT: B84/2 đường T, phường X quận Y, thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Trần Minh C, sinh năm 1999 ĐKTT: Ấp 2, xã P, huyện B, tỉnh Long An (vắng mặt).

2. Châu Ngọc Bảo S, sinh năm 1973 ĐKTT: Khu 2 Ấp C, xã P, huyện B, tỉnh Long An (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12 giờ ngày 16/12/2020 Tống Phát Đ vừa tan ca tại Công ty xây dựng p thuộc khu phố 6, thị trấn B, huyện B thì Đ nảy sinh ý định sử dụng trái phép chất ma tuý nên Đ mượn xe mô tô biển số 54Z3- 9190 của anh Phạm Văn B cùng làm chung Công ty nói đi mua đồ ăn, thì anh B đồng ý cho mượn nhưng anh B không biết Đ mượn xe để đi mua ma tuý. Sau đó Đ điều khiển xe mô tô 54Z3- 9190 đến khu vực ngã ba G thuộc ấp C, xã P, huyện B cách chốt đèn giao thông khoảng 50m theo hướng từ TP. HCM đi Long An. Tại đây Đ gặp người thanh niên (không rõ họ tên và địa chỉ) khoảng trên 30 tuổi, Đ hỏi mua của người này một gói ma tuý với giá tiền 300.000đ, 01 nỏ thuỷ tinh và 01 ống nhựa dùng để sử dụng ma tuý với giá tiền 50.000đ. Sau khi mua xong Đ cất giấu gói ma tuý trong túi áo phía trước bên phải, nỏ thuỷ tinh và ống nhựa Đ cất giấu trong túi quần bên trái, khi Đ vừa điều khiển xe đem ma tuý đi tìm nơi để sử dụng thì bị Lực lượng Công an huyện B kiểm tra bắt quả tang và thu giữ trong túi áo phía trước bên phải của Đ đang mặc 01 gói ma tuý có đặc điểm: gói nylon màu trắng, rãnh khép, viền xanh có kích thước khoảng 02cm x 02cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, thu giữ trong túi quần bên trái của Đ 01 nỏ thuỷ tinh và 01 ống nhựa.

Tại kết luận giám định số 1221/2020/KLGĐ ngày 21/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An, kết luận: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi nylon có rãnh khép viền xanh, được niêm phong có chữ ký của Tống Phát Đ và Trần Minh C gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,2980 gam, loại Methamphetamine.

Tại cáo trạng số 24/CT-VKSBL ngày 22-02-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức truy tố Tống Phát Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Tống Phát Đ hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội bị cáo thực hiện đúng như nội dung cáo trạng đã nêu. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức truy tố bị cáo Tống Phát Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức trong phần luận tội đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn nên xem xét giảm cho bị cáo một phần về hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Tống Phát Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Tống Phát Đ từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với người thanh niên (không rõ họ tên và địa chỉ) có hành vi bán trái phép chất ma tuý cho Tống Phát Đ nhưng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Lức không xác định được nhân thân và địa chỉ nên tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý sau.

Về vật chứng:

- 01 xe mô tô loại Wave, màu đỏ, biển số 54Z3-9190 thuộc chủ sở hữu của anh Phạm Văn B, anh B mua lại của anh Nguyễn Như H1 nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Anh B không biết Đ mượn xe mô tô trên để mua ma tuý sử dụng nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh B là phù hợp.

- 01 điện thoại di động hiệu ITEL, màu đỏ, số sim 0768989559 thuộc chủ sở hữu của Tống Phát Đ nhưng Đ không dùng làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho Đ là phù hợp.

- Mẫu tinh thể màu trắng còn lại sau giám định có khối lượng 0,1344 gam, được đóng gói niêm phong số 1221 có chữ ký của Nguyễn Thị Quế Ch và Nguyễn Thanh Kh và 01 nỏ thuỷ tinh, 01 ống nhựa bị cáo dùng để sử dụng ma túy đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu tiêu hủy.

(Vật chứng nêu trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Lức đang tạm giữ).

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi của mình đúng như cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đã nêu. Bị cáo không tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt nhưng đã có lời khai đầy đủ trong quá trình điều tra và việc vắng mặt những người này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu, bản kết luận giám định chất ma túy và các chứng cứ khác mà cơ quan điều tra đã thu thập được thẩm tra tại phiên tòa có đủ cơ sở khẳng định bị cáo Tống Phát Đ là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 12 giờ ngày 16/12/2020, Tống Phát Đ do cần ma túy để sử dụng nên điều khiển xe mô tô 54Z3-9190 từ khu phố 6 thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức đến khu vực ngã ba g thuộc ấp C, xã P, huyện B gặp người thanh niên (không rõ họ tên và địa chỉ) mua 01 gói ma tuý có khối lượng 0,2980 gam, loại Methamphetamine với giá tiền 300.000đ, 01 nỏ thuỷ tinh và 01 ống nhựa dùng để sử dụng ma tuý với giá tiền 50.000đ. Sau khi mua xong Đ cất giấu gói ma tuý trong túi áo phía trước bên phải, nỏ thuỷ tinh và ống nhựa Đ cất giấu trong túi quần bên trái, khi Đ vừa điều khiển xe đem ma tuý đi tìm nơi để sử dụng thì bị Lực lượng Công an huyện Bến Lức kiểm tra bắt quả tang cùng tang vật. Như vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Tống Phát Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, do đó cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ và đúng pháp luật, không oan.

[3] Hành vi trái pháp luật của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, bị cáo cũng thừa biết ma tuý là chất độc hại, gây nghiện làm tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe, tinh thần và thể chất con người nên Nhà nước thống nhất quản lý và nghiêm cấm mua bán, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép chất ma tuý nhưng vì muốn thỏa mãn cơn nghiện nên bị cáo mua ma túy về cất giấu trái phép, mục đích để sử dụng, chứng tỏ bị cáo xem thường pháp luật, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, xâm phạm đến sức khoẻ và sự phát triển nòi giống của dân tộc, là tác nhân gây ra bệnh HIV, gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Do đó cần áp dụng hình phạt buộc cách ly xã hội đối với bị cáo trong thời gian nhất định để giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn nên xem xét giảm cho bị cáo một phần về hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo có điều kiện kinh tế khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[6] Đối với người thanh niên (không rõ họ tên và địa chỉ) có hành vi bán trái phép chất ma tuý cho Tống Phát Đ nhưng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Lức không xác định được nhân thân và địa chỉ nên tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

[7] Về vật chứng:

- 01 xe mô tô loại Wave, màu đỏ, biển số 54Z3-9190 thuộc chủ sở hữu của anh Phạm Văn B, anh B mua lại của anh Nguyễn Như H1 nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Anh B không biết Đ mượn xe mô tô trên để mua ma tuý sử dụng nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh B là phù hợp.

- 01 điện thoại di động hiệu ITEL, màu đỏ, số sim 0768989559 thuộc chủ sở hữu của Tống Phát Đ nhưng Đ không dùng làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho Đ là phù hợp.

- Mẫu tinh thể màu trắng còn lại sau giám định có khối lượng 0,1344 gam, được đóng gói niêm phong số 1221 có chữ ký của Nguyễn Thị Quế Ch và Nguyễn Thanh Kh và 01 nỏ thuỷ tinh, 01 ống nhựa bị cáo dùng để sử dụng ma túy nên áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu tiêu hủy.

(Vật chứng nêu trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Lức đang tạm giữ).

[8] Về án phí: Bị cáo Tống Phát Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Tống Phát Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Tống Phát Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời gian tù tính từ ngày 16-12-2020.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tiếp tục tạm giam bị cáo Tống Phát Đ trong thời hạn 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày 20-4- 2021 để đảm bảo kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: Mẫu tinh thể màu trắng còn lại sau giám định có khối lượng 0,1344 gam, được đóng gói niêm phong số 1221 có chữ ký của Nguyễn Thị Quế Ch và Nguyễn Thanh Kh và 01 nỏ thuỷ tinh, 01 ống nhựa.

(Vật chứng nêu trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Lức đang tạm giữ).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Tống Phát Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:29/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Lức - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về