Bản án 29/2021/HNGĐ-ST ngày 25/03/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XM, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

 BẢN ÁN 29/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/03/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 3 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện XM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 378/2020/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2021/QĐXXST – HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 25/2021/QĐST – HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Võ Thị Xuân T, sinh năm: 1980 (Vắng mặt, có đơn xin vắng).

Địa chỉ: Ấp LD, xã LD, huyện ĐĐ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

 Bị đơn: Ông Nguyễn Anh S, sinh năm: 1981 (Vắng mặt). HKTT: Ấp LD, xã LD, huyện ĐĐ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Chỗ ở hiện nay: Ấp TS 3, xã PT, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản khai và các biên bản làm việc tiếp theo tại Tòa án nguyên đơn – Bà Võ Thị Xuân T trình bày:

Bà Võ Thị Xuân T xây dựng gia đình với ông Nguyễn Anh S vào năm 2016 nhưng đến năm 2017 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã PT, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, hôn nhân là trên cơ sở tự nguyện. Cuộc sống chung giữa bà T và ông S hạnh phúc được một thời gian ngắn thì thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân ông S có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, không lo làm ăn, cờ bạc , uống rượu say xỉn về kiếm chuyện cải vã với bà T, đôi khi xảy ra xô sát. Bà T và ông S cố gắng giải quyết những mâu thuẫn giữa vợ chồng nhưng tình hình vẫn không có gì thay đổi. Từ tháng 02/2020 bà T và ông S ly thân cho đến nay, mạnh ai nấy sống, vợ chồng không còn quan tâm gì đến nhau.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông S.

Về con chung: Bà T và ông S có 01 con chung tên Nguyễn Võ Xuân T, sinh ngày 30/12/2016, hiện đang sống cùng bà T. Bà T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung và tự nguyện không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T và ông S tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã triệu tập ông Nguyễn Anh S đến tham gia hòa giải nhiều lần nhưng ông S vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Do đó Tòa án lập biên bản về việc vắng mặt đương sự không tiến hành hòa giải được để có cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Tại các phiên Tòa ông S đều vắng mặt không có lý do.

Phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình còn bị đơn vắng mặt tại các buổi làm việc trước đây cũng như tại các phiên tòa là chưa chấp hành đúng pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ly hôn và giải quyết con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Quan hệ tranh chấp: Bà Võ Thị Xuân T yêu cầu ly hôn, giải quyết con chung với ông Nguyễn Anh S đây là quan hệ pháp luật ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn ông Nguyễn Anh S có nơi cư trú tại địa bàn huyện XM theo điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Trong quá trình tham gia tố tụng ông Nguyễn Anh S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông S vắng mặt không có lý do, bà Võ Thị Xuân T có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy việc xét xử vắng mặt bà T, ông S là phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Thị Xuân T và ông Nguyễn Anh S xây dựng gia đình vào năm 2016 nhưng đến năm 2017 mới đăng ký kết hôn và được cấp giấy chứng nhận kết hôn (Giấy chứng nhận kết hôn số 25/2017, đăng ký ngày 17/02/2017 tại UBND xã PT, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), xét đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Sau khi xây dựng gia đình bà T và ông S chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ c hồng không hợp nhau về tính tình về lối sống nên thường xảy ra cải vã, đôi khi dẫn đến xô sát.

Kết quả xác minh tại địa phương: Ông Nguyễn Anh S đang sinh sống cùng cha mẹ tại ấp TS 3, xã PT, huyện XM. Trong thời gian sinh sống tại địa phương ông S và bà T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cải vã nhau nên bà T đã bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống. Nguyên nhân mâu thuẫn như thế nào thì địa phương không rõ do không hòa giải ở cơ sở. Ông S và bà T có 01 con chung đang sống cùng bà T.

Xét yêu cầu của bà T cho thấy sau khi mâu thuẫn xảy ra, lẽ ra bà T và ông S phải cùng tìm cách khắc phục những mâu thuẫn của vợ chồng để cuộc sống chung được hạnh phúc và cùng nhau chăm sóc nuôi dạy con cái nhưng từ đầu năm 2020 đến nay bà T và ông S ly thân. Sau khi bà T gửi đơn, Tòa án đã tiến hành nhiều phiên hòa giải để đoàn tụ vợ chồng nhưng không thể hòa giải được, ông S vắng mặt không lý do, thể hiện không có thiện chí hòa giải.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng của bà T và ông S thật sự không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Võ Thị Xuân T đối với ông Nguyễn Anh S.

[3] Về con chung: Bà T và ông S có 01 con chung tên Nguyễn Võ Xuân T, sinh ngày 30/12/2016, hiện đang sống cùng bà T. Bà T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung và tự nguyện không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu của bà T cho thấy, từ khi bà T nộp đơn và Tòa án thụ lý vụ án cho đến nay ông S không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình về việc bà T có yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét nguyện vọng của cháu Tình cho thấy cháu có nguyện vọng ở với bà T, nên Tòa án căn cứ vào thực tế và các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, để tránh xáo trộn cuộc sống của con chung, giao cháu Tình cho bà T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Bà T không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 5, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của bà Võ Thị Xuân T đối với ông Nguyễn Anh S.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Thị Xuân T được ly hôn với ông Nguyễn Anh S.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Võ Xuân T, sinh ngày 30/12/2016 cho bà Võ Thị Xuân T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác. Ông Nguyễn Anh S không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Nguyễn Anh S có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Võ Thị Xuân T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

4. Về án phí: Bà Võ Thị Xuân T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm bà T đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008548 ngày 10/7/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà T đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 29/2021/HNGĐ-ST ngày 25/03/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:29/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về