Bản án 29/2021/HNGĐ-ST ngày 09/04/2021 về ly hôn và nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 29/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/04/2021 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 09 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 25/2021/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2021 về việc “Ly hôn và nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/QĐST- HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2021/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đào Thị N, sinh năm 1991; đăng ký nhân khẩu thường trú: T1, thị trấn N, huyện K, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn T, xã T2, huyện K, thành phố Hải Phòng, vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Trần Nhật T, sinh năm 1990; đăng ký nhân khẩu thường trú: T1, thị trấn N, huyện K, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 29 tháng 01 năm 2021 và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện K, nguyên đơn là chị Đào Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Đào Thị N và anh Trần Nhật T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 14 tháng 10 năm 2010 tại Ủy ban nhân dân xã K1, huyện K, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn anh, chị cùng chung sống tại thị trấn N, huyện K, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được khoảng 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, phong cách sống không phù hợp, anh T chơi bời, nợ nần, không quan T đến cuộc sống gia đình nên hai bên không có sự tôn trọng lẫn nhau dẫn đến hai vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi lẫn nhau làm ảnh hưởng đến cuộc sống chung cũng như việc nuôi dạy và chăm sóc con cái. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải xong không cải thiện được mà ngày càng căng thẳng hơn nên chị N và anh T đã sống ly thân. Trong thời gian sống ly thân chị N và anh T không còn quan T đến nhau nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị N được ly hôn với anh Trần Nhật T.

Về con chung: Chị N khai vợ chồng có 03 con chung là Trần Mai H, sinh ngày 02/02/2010; Trần Quỳnh H1 sinh ngày 22/5/2013 và Trần Quang M, sinh ngày 19/12/2017, hiện cả ba con chung đang do chị N nuôi dưỡng. Trường hợp ly hôn chị N đề nghị được tiếp tục nuôi cả ba cháu vì từ khi ly thân đến nay chị N là người trực tiếp nuôi dưỡng các con, chị có công việc và thu nhập ổn định đồng thời các con ở với chị N vẫn được chăm sóc tốt về mọi mặt. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị N để tự thỏa thuận với anh T do vậy không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị N không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Trần Nhật T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác nhưng đến ngày Tòa án mở phiên tòa xét xử lần thứ hai anh T vẫn không có mặt tại Tòa án để có ý kiến về yêu cầu xin ly hôn và nuôi con khi ly hôn của chị Đào Thị N.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật; bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Đào Thị N và anh Trần Nhật T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng dụng khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội chấp nhận yêu cầu của chị Đào Thị N được ly hôn anh T. Về con chung, giao con chung là Trần Mai H, sinh ngày 02/02/2010; Trần Quỳnh H1 sinh ngày 22/5/2013 và Trần Quang M, sinh ngày 19/12/2017 cho chị N nuôi dưỡng. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do chị N và anh T tự thỏa thuận giải quyết nên đề nghị hội đồng xét xử không xem xét; về tài sản chung do chị N không yêu cầu giải quyết, nên đề nghị hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn là chị Đào Thị N vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Trần Nhật T đã được Toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để anh T có mặt tại Toà án trình bày ý kiến của mình về việc chị Đào Thị N có đơn xin ly hôn nhưng anh T vắng mặt tại phiên tòa hai lần không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 1,3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn là chị Đào Thị N và bị đơn là anh Trần Nhật T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Đào Thị N và anh Trần Nhật T là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và do anh T chơi bời, nợ nần nên giữa hai vợ chồng thường xuyên cãi mắng xúc phạm nhau. Kết quả xác M tại chính quyền địa phương và gia đình thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị N và anh T phù hợp với lời khai của chị N. Chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T, anh T không có mặt tại Tòa theo giấy triệu tập của Tòa án và vắng mặt tại các buổi hòa giải cũng như tại phiên tòa xét xử. Như vậy thể hiện tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh T đã trầm trọng, khả năng vợ chồng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó hội đồng xét xử căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị N xin ly hôn với anh T.

[3] Về con chung: Chị N và anh T có 03 con chung là Trần Mai H, sinh ngày 02/02/2010; Trần Quỳnh H1 sinh ngày 22/5/2013 và Trần Quang M, sinh ngày 19/12/2017, trường hợp ly hôn chị N đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng cả 03 con. Việc giao con chưa thành niên cho ai nuôi cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên cũng như đảm bảo quyền được chăm sóc nuôi dưỡng con của cả cha, mẹ. Xét hiện nay, chị N có công việc và thu nhập ổn định, đang trực tiếp nuôi dưỡng các cháu, các cháu vẫn được chăm sóc ổn định về mọi mặt, Mặt khác cháu Trần Mai H và Trần Quỳnh H1 có nguyện vọng được ở với mẹ; anh T không có mặt và không có ý kiến về việc nuôi dưỡng con chung. Như vậy, cần chấp nhận đề nghị của chị N, giao cháu Trần Mai H, sinh ngày 02/02/2010; Trần Quỳnh H1 sinh ngày 22/5/2013 và Trần Quang M, sinh ngày 19/12/2017 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do chị N đề nghị để tự thỏa thuận với anh T nên hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị N khai vợ chồng tự thỏa thuận về tài sản chung, không đề nghị Tòa án giải quyết, anh T vắng mặt và chưa có lời khai về tài sản chung vợ chồng, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Về hôn nhân: Chị Đào Thị N được ly hôn anh Trần Nhật T.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung Trần Mai H, sinh ngày 02/02/2010; Trần Quỳnh H1 sinh ngày 22/5/2013 và Trần Quang M, sinh ngày 19/12/2017 cho chị Đào Thị N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

2.2. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Hội đồng xét xử không xem xét, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của anh Trần Nhật T.

Sau khi ly hôn anh Trần Nhật T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Đào Thị N phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí chị N đã nộp theo biên lai số 0009054 ngày 19/02/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, thành phố Hải Phòng. Chị N đa nôp đu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Đào Thị N có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Trần Nhật T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2021/HNGĐ-ST ngày 09/04/2021 về ly hôn và nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:29/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về