Bản án 29/2020/HS-ST ngày 27/04/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 29/2020/HS-ST NGÀY 27/04/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27/4/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 29/2020/HSST ngày 27/02/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2020/QĐXXST-HS ngày 13/4/2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh năm 1995; Nơi sinh: xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Nơi cư trú: thôn BĐ, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa: 08/12; con ông Nguyễn Văn T và con bà Nguyễn Thị H; Có vợ: Lý Thị T và có 02 con; Tiền án, tiền sự: không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/11/2019 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Bắc Giang (có mặt)

2. Họ và tên: Đồng Văn T, sinh năm 1997; Nơi sinh: xã N, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Nơi cư trú: thôn 4 B, xã N, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa: 08/12; con ông Đồng Văn H và con bà Vương Thị V; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không; Bị bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/11/2019 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Bắc Giang (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lò Văn T, sinh năm 1995; Địa chỉ: Bản K2, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu (vắng mặt).

- Người làm chứng: Anh Phùng Văn H, sinh năm 1978; Địa chỉ: Thôn H3, xã H, huyện V, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

- Người chứng kiến: Anh Lương Xuân H, sinh năm 1978; Địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 01/11/2019, Đồng Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu sơn xanh, biển kiểm soát 25T1-135.82 đến thôn MĐ, xã H, huyện V chơi. Tại đây, T gọi điện thoại cho Nguyễn Văn H (là bạn quen biết nhau từ trước), rủ H đi đến cửa hàng xăm hình của anh P đang thuê ở thôn C, xã T, huyện V chơi và được H đồng ý. T điều khiển xe mô tô đến đón và chở H đến cửa hàng xăm hình của anh P. H ở lại quán anh P chơi, còn T đi về phòng trọ của đối tượng tên là M (T mới quen biết được khoảng 10 ngày trước đó; cả T và H đều không biết họ, tên đệm và địa chỉ cụ thể) đang thuê trọ tại nhà trọ của gia đình ông Lương Văn C- sinh năm 1963 ở thôn C, xã T, huyện V. Một lúc sau, H đi bộ đến phòng trọ của M chơi. T và H được M mời đi ăn trưa tại quán ăn gần Nhà văn hóa xã T cùng với một người bạn của M tên là L. Sau khi ăn xong, M, H, T và L đi về phòng trọ của M. M đi lên gác xép phòng trọ nghỉ, còn T, H và L nằm nghỉ ở trên chiếc chiếu trải ở sàn phòng trọ. Khoảng 13 giờ cùng ngày, M gọi T lên gác xép. Khi T lên chỗ M thì M bảo T xuống gọi H lên để M nhờ H mang 02 gói ma túy đi giao cho H1. Lúc này, T nhìn thấy 02 gói nilon (bên ngoài quấn băng dính màu xanh) để ở trên chiếu (cạnh chỗ M nằm), biết rõ 02 gói nilon này có ma túy bên trong nên T đã cầm 02 gói ma túy này đi xuống chỗ H đang nằm và nói to “Anh H đây” (để thông báo cho M biết H đang ở đây). Nghe T nói vậy, M thò đầu qua lan can gác xép nói: “H ơi, mày hộ tao đúng một lần này thôi, cầm hộ tao hai cái này đi ra đưa cho H1, cầm cho tao ít tiền về, cả tiền nợ cũ nữa, nó còn nợ tao một ít nữa”. M nói xong, T để 02 gói ma túy ở trên chiếu (ngay sát chỗ H nằm), đồng thời bảo H đi sang cửa hàng xăm hình của P lấy vỏ bao thuốc lá rồi cho ma túy vào. H hiểu rõ 02 gói nilon T đưa cho H có ma túy bên trong, M bán cho H1 và nhờ H mang ra đưa cho H1 rồi lấy tiền H1 trả mang về cho M nên H cầm 02 gói ma túy T đưa cho, sau đó H đi bộ sang cửa hàng xăm hình của P nhặt 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long (ở cửa quán), đút 02 gói ma túy vào bên trong vỏ bao thuốc lá này rồi cất vào bên trong túi bên trái phía trước áo khoác đang mặc. Cùng lúc đó, T lấy xe mô tô biển kiểm soát 25T1- 135.82, điều khiển xe đi sang cửa hàng xăm hình của P đón H rồi chở H ngồi sau đem ma túy đi giao cho H1. Khi T điều khiển xe mô tô chở H đi đến đoạn đường gần khu vực cây xăng xã T, huyện V thì T nhìn thấy phía trước (cách khoảng 20 mét) có 01 chiếc xe ô tô 04 chỗ màu sơn đen (T và H không nhìn rõ biển kiểm soát) đang đỗ ở rìa đường, T biết đó là xe ô tô của H1 nên T nói với H: “Anh H1 kia rồi” và điều khiển xe đi đến cách chỗ ô tô khoảng 4-5 mét thì T đỗ xe lại ở rìa đường để cho H xuống xe, đồng thời T nói với H “Lấy 600.000 đồng về cả tiền nợ cũ nữa”. H xuống xe và H đi bộ về phía chỗ chiếc ô tô đang đỗ. Khi H đi bộ đến gần vị trí chiếc ô tô đỗ thì bị Tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra về tội phạp ma túy- Công an tỉnh Bắc Giang phát hiện, bắt quả tang H, T và thu giữ vật chứng liên quan, còn chiếc ô tô 04 chỗ bỏ chạy.

Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ bên trong túi bên trái phía trước áo khoác Nguyễn Văn H đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng (có lớp ni lon màu trắng bên ngoài), bên trong vỏ bao thuốc lá có 02 túi ni lon màu trắng đều được cuốn băng dính màu xanh, trong đó: 01 túi ni lon có đựng chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp dạng đá; 01 túi ni lon còn lại trong đựng chất tinh thể màu trắng và 01 viên nén màu hồng đỏ trên một mặt có chữ “WY” nghi là ma túy tổng hợp dạng đá và dạng hồng phiến. Tất cả số ma túy trên được niêm phong trong phong bì ký hiệu “QT”.

Quá trình bắt quả tang còn thu giữ bên trong túi bên phải quần H đang mặc 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung; thu giữ trong túi bên trái quần Đồng Văn T đang mặc 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO; thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, biển kiểm soát 25T1- 135.82.

Tại Kết luận giám định số 1727/KL-KTHS ngày 04/11/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định:

- Tinh thể màu trắng và 01 (một) viên nén màu hồng đỏ, trên một mặt của viên nén có chữ “WY” đựng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa nhựa, viền màu xanh, bên ngoài quấn băng dính màu xanh đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,210 gam (trong đó: khối lượng tinh thể màu trắng là 0,118 gam; khối lượt 01 (một) viên nén màu hồng đỏ là 0,092 gam).

- Tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh, bên ngoài quấn băng dính màu xanh là chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,201 gam”.

Tại bản cáo trạng số 25/CT-VKS ngày 26/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên đã truy tố Nguyễn Văn H, Đồng Văn T ra trước Tòa án nhân dân huyện Việt Yên để xét xử về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy", theo điểm c khoản 1 Điều 250 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn H, bị cáo Đồng Văn T đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra có trong hồ sơ vụ án, các bị cáo thừa nhận số lượng chất ma túy 0,411 gam Methamphetamine bị thu giữ khi bị bắt là của các bị cáo do M nhờ chuyển cho H1. Bị cáo Đồng Văn T khai có thời gian đi nghĩa vụ quân sự 02 năm từ 2015 đến 2017 và được tặng giấy khen trong công tác dân vận.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo. Sau khi phân tích tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H, bị cáo Đồng Văn T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 28 tháng tù đến 30 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Đồng Văn T từ 26 tháng tù đến 28 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng và miễn án phí sơ thẩm cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Việt Yên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên là hợp pháp, không có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Văn H và Đồng Văn T đều thừa nhận số lượng 0,411 gam chất ma túy Methamphetamine bị bắt quả tang có nguồn gốc là của đối tượng tên là M nhờ H và T mang đi giao cho người có tên là H1. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng của vụ án, kết luận giám định và lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, các tài liệu khác thu thập được, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 01/11/2019, tại khu vực đoạn đ ư ờng từ cây x ăn g xã T đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã T, huyện V, Tổ công tác thuộc Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy- Công an tỉnh Bắc Giang phối hợp với Công an huyện Việt Yên phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn H, sinh năm 1995, trú tại: thôn BĐ, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang và Đồng Văn T, sinh năm 1997, trú tại: thôn 4 B, xã N, huyện L, tỉnh Bắc Giang đang có hành vi vận chuyển trái phép 0,411 gam chất ma túy Methamphetamine.

[3] Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, các bị cáo vận chuyển chất ma túy với số lượng khối lượng là 0,411 gam Methamphetamine, nên Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn H và Đồng Văn T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, vi phạm vào điểm c khoản 1 Điều 250 của Bộ luật hình sự năm 2015, như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ.

Đối với đối tượng M là người đưa ma túy, nhờ H và T đi giao ma túy cho khách; Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Việt Yên đã tiến hành xác minh tại khu nhà trọ của ông Lương Văn C, sinh năm 1963, trú tại: thôn C, T, V làm chủ (là nơi đối tượng M thuê phòng trọ). Kết quả, ông C xác nhận có cho một người tên M, sinh năm 1991, có địa chỉ ở xã T, thành phố B thuê phòng trọ được khoảng gần 03 tháng. T có đến ở phòng trọ của M được khoảng 10 ngày thì T bị bắt. Ngay sau đó đối tượng M đã bỏ đi đến thời điểm xác minh vẫn chưa quay lại. T, H đều khai không biết họ tên đệm, tuổi, địa chỉ cụ thể của đối tượng M; Cơ quan điều tra đã xác minh tại xã T, thành phố B nhưng không có đối tượng nào tên là M, sinh năm 1991 nên Cơ quan điều tra đã tách phần tài liệu liên quan đối tượng M ra khỏi hồ sơ vụ án để tiếp tục điều tra làm rõ, khi nào có căn cứ xử lý sau.

Đối tượng tên L là người đi ăn cùng, đến phòng trọ của đối tượng M, quá trình điều tra H, T đều khai không biết tên, tuổi, địa chỉ của đối tượng L nên không có cơ sở để xác minh, làm rõ.

[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ chất ma túy là vật Nhà nước cấm lưu hành, sử dụng trái phép chất ma túy là một trong những tệ nạn xã hội cần bài trừ bởi nó là một trong những nguyên nhân dẫn tới các hành vi phạm tội khác như trộm cắp, cướp tài sản, giết người..., là nguyên nhân dẫn tới tan vỡ hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng rất xấu tới đời sống xã hội, do vậy cần xử lý nghiêm các bị cáo mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của các bị cáo.

[5] Về vai trò, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về vai trò: Các bị cáo đồng phạm giản đơn có vai trò ngang nhau trong vụ án này vì các bị cáo đều là người thực hành, lúc đầu T cầm chất ma túy đưa cho H, sau đó T điều khiển xe mô tô thì H cầm chất ma tuý giao cho đối tượng tên H1.

Về nhân thân: Các bị cáo đều có nhân thân tốt vì bị kết án, chưa bị xử lý hành chính lần nào.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định ở khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều được hưởng tình tiết "Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải", quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Đồng Văn T có thời gian 02 năm đi nghĩa vụ quân sự nên cần áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Xét tính chất vụ án, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, xử phạt các bị cáo mức hình phạt tương xứng và cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát để cải tạo, giáo dục các bị cáo thành công dân có ích cho xã hội. Các bị cáo có vai trò ngang nhau, bị cáo T có nhiều tình tiết giảm nhẹ hơn nên cần quyết định mức hình phạt thấp hơn bị cáo H.

[7] Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo điều kiện kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

Số lượng chất ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α, màu xanh, biển kiểm soát 25T1- 135.82, quá trình điều tra xác định tài sản trên thuộc sử hữu hợp pháp của anh Lò Văn T, sinh năm 1995, trú tại Bản K2, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu, anh Lò Văn T khai cho T cho mượn để đi lại, anh Lò Văn T không biết việc T dùng xe làm phương tiện phạm tội nên cần trả lại cho anh Lò Văn T.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen không có nắp sau và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng thu giữ của H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu vàng thu giữ của T, các điện thoại di động này thuộc sở hữu hợp pháp của T, H không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho các bị cáo.

[9] Các bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với cả bị cáo Nguyễn Văn H và Đồng Văn T; Áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đồng Văn T.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H và Đồng Văn T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 28 (Hai mươi tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ: ngày 01/11/2019.

+ Xử phạt bị cáo Đồng Văn T 26 (Hai mươi sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ: ngày 01/11/2019.

[2] Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 và khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

+ Tịch thu tiêu hủy toàn bộ 01 phong bì thư có ký hiệu "QT" đã được niêm phong lại bằng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang, có chữ ký của giám định viên và đại diện cơ quan trưng cầu giám định, bên trong có 0,359 gam chất ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định.

+ Trả lại cho anh Lò Văn T 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave α, màu xanh, biển kiểm soát 25T1- 135.82, số khung RLHJA3913KY149361, số máy: JA39E-1006630 + Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen không có nắp vỏ sau, có số seri 357906049599514 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng, Imei (khe1): 355799057214247, Imei 2 (khe 2): 355800057214243.

+ Trả lại cho bị cáo Đồng Văn T 01 điện thoại di động OPPO, màu vàng, có số Imei 1: 865262037641438, Imei 2: 865262037641420.

[3] Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo: Nguyễn Văn H và Đồng Văn T.

[4] Báo cho các bị cáo có mặt biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2020/HS-ST ngày 27/04/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

Số hiệu:29/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về