Bản án 29/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN - TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 29/2019/HS-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại phòng xét xử tầng 2 - trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Phùng Thị M (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 09/10/1979 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 17, đường V, khối H, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Anh C và bà Trần Thị L (đều đã chết); chồng: Không có; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2009 con nhỏ sinh năm 2014; tiền sự: Không có; tiền án: 04 tiền án: Tại bản án số 159/HS_ST, ngày 23/12/1997 của Tòa án nhân dân tỉnh L đã xử phạt 07 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy. Tại bản án số 146/2012/HSST, ngày 25/10/2012 Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 07 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy (bị cáo được hoãn chấp hành hình phạt tù). Tại bản án số 166/2012/HSST, ngày 30/11/2012 Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 07 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy (bị cáo đang hoãn chấp hành hình phạt tù). Tại bản án số 42/2014/HSST, ngày 24/4/2014 Tòa án nhân dân thành phố L xử phạt 09 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, tổng hợp 23 năm tù giam (bị cáo được hoãn chấp hành hình phạt tù). Bị cáo bị bệnh nặng, HIV chuyển sang AIDS đang điều trị viêm phế quản, hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 14/12/2018. Bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 30 phút, ngày 09/12/2018 tại khu vực chợ B, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn tổ công tác Công an phường V, thành phố L tỉnh Lạng Sơn tiến hành kiểm tra hành chính thu giữ của Phùng Thị M 18 gói giấy nhỏ bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số: 26/KLTT-PC54 ngày 13/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: "Chất bột màu trắng có trong 18 gói giấy thu giữ của Phùng Thị M là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,523 gam (đã trừ bì)." Tại bản Cáo trạng số: 35/KSĐT ngày 28/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đã truy tố Phùng Thị M về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm o, khoản 2, Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Phùng Thị M có đơn xin xét xử vắng mặt và giữ nguyên lời khai của mình tại Cơ quan điều tra. Bị cáo khai nhận; bản thân sử dụng ma túy từ năm 1997, ngày 06/12/2018 đến khu vực đầu cầu K, đường T, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn mua 01 gói Heroine giá 800.000đ (tám trăm nghìn đồng) với một người phụ nữ (không biết tên, địa chỉ), bị cáo đi vào nhà vệ sinh khu vực chợ b, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn chia ma túy thành 18 gói nhỏ cất giấu trong túi áo khoác mặc trên người để sử dụng. Khi bị cáo đi vào khu vực chợ B thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố Phùng Thị M phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55, 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phùng Thị M từ 5 đến 6 năm tù, tổng hợp hình phạt với bản án số: 42/2014/HSST, ngày 24/4/2014 của Tòa án nhân dân thành phố L, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung. Không áp dụng hình phạt bổ sung vì bị cáo không có tài sản để đảm bảo thi hành án. Về xử lý vật chứng áp dụng điểm a, b khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đựng mẫu vật chất ma túy. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng. Các quyết định, hành vi tố tụng đã thực hiện là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại đối với quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng.

[2] Bị cáo tuy vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt và thừa nhận hành vi phạm tội của mình; lời khai nhận tội của Phùng Thị M phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, khám xét, tang vật thu giữ, đồng thời phù hợp với kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ, xác định: Ngày 09/12/2018 tại khu vực chợ B, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn Phùng Thị M có hành vi cất dấu trong người 18 gói ma túy Heroine có tổng khối lượng 0,523gam với mục đích để sử dụng. Bị cáo có 4 tiền án về Tội mua bán trái phép chất ma túy đều chưa được xóa án tích, trong đó có 3 tiền án đang hoãn chấp hành án do bị bệnh AIDS và tổng hợp hình phạt là 23 năm tù. Lần phạm tội này của bị cáo tiếp tục được xác định là tái phạm nguy hiểm, là tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại điểm 0, khoản 2, Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thấy rằng, hành vi mà bị cáo thực hiện nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây nguy hại đến trật tự, an ninh, an toàn xã hội. Ma tuý là các hỗn hợp chất hoá học, có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp nhân tạo, gây kích thích hoặc ức chế thần kinh; không chỉ huỷ hoại sức khoẻ mà còn làm suy thoái nòi giống, suy giảm phẩm giá và nhân cách của con người, là nguyên nhân làm phát sinh hàng loạt các loại tội phạm khác. Chính vì vậy, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Phùng Thị M cần được xử lý nghiêm khắc trước pháp luật để giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, có đủ căn cứ chứng minh bị cáo đã phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đã truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] Để có căn cứ quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi nêu trên, cần phải xem xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo để cá thể hóa trách nhiệm hình sự và mức hình phạt, trên cơ sở xem xét đề nghị luận tội của cơ quan công tố, cụ thể:

[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải; bản thân bị cáo là người mắc bệnh nặng, HIV chuyển sang giai đoạn AIDS, đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[8] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân không tốt, rất nhiều lần tái phạm tội liên quan đến ma túy, bị xử phạt mức tù cao nhưng vẫn tiếp tục phạm tội thể hiện ý thức coi thường, bất chấp pháp luật.

[9] Hình phạt chính: Hội đồng xét xử xem xét, quyết định một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội, đó là cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định, ấn định hình phạt đối với bị cáo trên mức khởi điểm của khung hình phạt, đảm bảo thời gian cho bị cáo tập trung học tập, cải tạo và trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời cũng đảm bảo tính chất răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[10] Hình phạt bổ sung: Tại Biên bản xác minh ngày 19/12/2018 có xác nhận của chính quyền địa phương xác định bị cáo không có thu nhập không có tài sản đảm bảo thi hành án; vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì không mang tính khả thi trong công tác thi hành án.

[11] Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là vật cấm lưu hành.

[13] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[14] Xét lời luận tội và ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ và mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[15] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55, 56 của Bộ luật Hình sự. Các điểm a, c khoản 2 Điều 106 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

1. Tội danh và hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Phùng Thị M phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Phùng Thị M 06 (sáu) năm tù; Tổng hợp hình phạt 23 (hai mươi ba ) năm tù tại bản án số: 42/2014/HSST, ngày 24/4/2014 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh L. Buộc bị cáo Phùng Thị M phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 29 (hai mươi chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 29 tháng 01 năm 2019).

3. Án phí: Buộc bị cáo Phùng Thị M phải chịu 200.000VNĐ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

4. Án xử công khai sơ thẩm; Tòa báo cho bị cáo được biết có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:29/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về