Bản án 14/2019/HS-ST ngày 30/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HD, TỈNH HD

BẢN ÁN 14/2019/HS-ST NGÀY 30/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 01 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố HD. Tòa án nhân dân thành phố HD, tỉnh HD xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 262/2018/TLST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2019/HSST-QĐ ngày 22 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Việt D, sinh năm 1974 tại Hải Dương. ĐKHKTT: Số 4/27 MHĐ, phường Bình Hàn, thành phố HD, tỉnh HD.; chỗ ở: Không cố định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Duy T (đã chết và bà Nguyễn Thị H ; vợ Bùi Thị Nh và 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/10/2018 đến ngày 04/10/2018 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Kim Chi-Công an HD đến nay (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Những người tham gia tố tụng khác:

* Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Hữu T , sinh năm 1991; trú tại: Số 28B LTK, phường Trần Phú, HD, tỉnh HD.(vắng mặt).

+ Anh Đàm Quang H , sinh năm 1982; trú tại: Khu 11 phường Hải Tân, thành phố Hải Dương, HD, tỉnh HD. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tại bản cáo trạng số 02/CT-VKSTPHD ngày 18/12/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD, tỉnh HD truy tố Nguyễn Việt D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự với căn cứ: Vào khoảng 21 giờ, ngày 01/10/2018, tại trước cửa số nhà 4/27 MHĐ, phường Bình Hàn, thành phố HD. Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an thành phố HD phát hiện bắt quả tang Nguyễn Việt D đang cất giấu trái phép một gói nilon màu trắng, kích thước khoảng 2x2cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng D khai nhận là ma túy tổng hợp dạng đá cất giấu để sử dụng. Quá trình bắt giữ D và thu giữ gói ma túy có sự chứng kiến của anh Nguyễn Hữu T cư trú tại số 28B LTK, phường Trần Phú, thành phố HD và anh Đàm Quang H cư trú tại Khu 11 phường Hải Tân, thành phố HD.

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Việt D khai nhận: Do bản thân có sử dụng chất ma túy nên khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 01/10/2018 D đang ở nhà số 4/27 MHĐ, phường Bình Hàn, thành phố HD thì có bạn là Nguyễn Hữu T và Đàm Quang H đến chơi. Trong lúc ngồi chơi T đưa cho D 200.000 đồng để D đi mua ma túy tổng hợp về cùng sử dụng. D điều khiển xe mô tô của T ra khu vực đường Nguyễn Trãi, thành phố HD mua 01 gói ma túy của nam thanh niên không quen biết với số tiền 200.000 đồng. Sau khi mua được gói ma túy D cầm trên tay trái điều khiển xe mô tô về nhà tại số 4/27 MHĐ, phường Bình Hàn, thành phố HD thì bị công an thành phố HD kiểm tra. D đã vứt gói ma túy xuống đất cạnh nơi D đang đứng.

Tại kết luận giám định số 576/KLGĐ-PC09 ngày 04/10/2018 Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh HD kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Nguyễn Việt D, gửi đến giám định có khối lượng là 0,257 gam là ma túy, loại Methamphetamine. Hoàn trả 0,173 gam Methamphetamine.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Việt D thừa nhận vào khoảng 21 giờ, ngày 01/10/2018, tại trước cửa số nhà 4/27 MHĐ, phường Bình Hàn, thành phố HD; Dũng đã bị cơ quan điều tra công an thành phố HD bắt giữ do thực hiện hành vi cất giấu trái phép một gói Methamphetamine để sử dụng cho bản thân. Bị cáo nhất trí với kết luận giám định; thể hiện thái độ ăn năn hối cải; công nhận Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng; bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa trình bày quan điểm giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả, điều kiện, nguyên nhân phạm tội, nhân thân của bị cáo. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Việt D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt chính: Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Việt D từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 01/10/2018.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ mẫu vật hoàn lại sau giám định.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm hình sự theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ xác định bị cáo Nguyễn Việt D có tội và áp dụng pháp luật:

Bị cáo Nguyễn Việt D thừa nhận vào khoảng 21 giờ, ngày 01/10/2018, tại trước cửa số nhà 4/27 MHĐ, phường Bình Hàn, thành phố HD. Đã cố ý thực hiện hành vi cất giấu trái phép một gói Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị cơ quan công an phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định, biên bản niêm phong vật chứng bị tạm giữ. Các tài liệu, chứng cứ nêu trên phù hợp với các chứng cứ khác như: Bản tự khai của bị cáo, biên bản lấy lời khai bị cáo, biên bản hỏi cung bị cáo, biên bản lấy lời khai của người làm chứng đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Từ những chứng cứ nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; thực hiện hành vi cất giấu trái phép chất ma túy với lỗi cố ý, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Hành vi tàng trữ trái phép ma túy là loại Methamphetamine có khối lượng 0,257 gam nên bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố và bị đưa ra xét xử về tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đủ căn cứ, đúng người thực hiện hành vi phạm tội và đúng pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Mặt khác, bị cáo có bố mẹ đều được Nhà nước tặng thưởng Huân chương nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Do vậy, mặc dù cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhưng cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật và vẫn đảm bảo tác dụng giáo dục bị cáo cũng như phòng ngừa chung trong xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người không có thu nhập ổn định, tàng trữ trái phép ma túy số lượng không lớn và mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về biện pháp tư pháp: Đối với vật chứng cơ quan giám định hoàn lại, xét thấy Methamphetamine là chất Nhà nước cấm lưu hành, vỏ bao gói không còn giá trị sử dụng nên tịch thu cho tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Trong quá trình điều tra, truy tố; điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về các vấn đề khác:

Cơ quan điều tra không chứng minh được hành vi Nguyễn Hữu T đưa tiền cho bị cáo đi mua ma túy về cùng sử dụng nên không có căn cứ xem xét trách nhiệm đối với Nguyễn Hữu T .

Hành vi bán ma túy cho D của đối tượng nam giới không xác định được nên cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm của người này là phù hợp.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đen - xám, biển số 34M9-6364, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HD đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Đào Thị B nên không đặt ra giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c Khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Việt D phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Việt D 14 (mười bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 01/10/2018.

3. Về biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Methamphetamine và vỏ bao gói hoàn trả sau giám định được đựng trong phong bì niêm phong số 576/KLGĐ-PC09.

(Vật chứng trên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/01/2018 giữa cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố HD và Chi cục thi hành án dân sự thành phố HD).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Việt D phải chịu 200.000đ án phí sơ thẩm hình sự.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Việt D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HS-ST ngày 30/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về