Bản án 29/2018/HS-ST ngày 09/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 29/2018/HS-ST NGÀY 09/02/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 02 năm 2018 tại Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 21/2018/TLST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2018/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2018, đối với bị cáo:

Họ tên: Lê Quang T - sinh năm 1980 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 50B/703 đường C, phường L, thành phố Đ, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Quang B và bà Trần Thị Băng T; có vợ: Nguyễn Thùy D và 01 con;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 19-01-1999 bị Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 03 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản của công dân”.

- Ngày 28-02-2000 bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 09 tháng tù về tội: “Chống người thi hành công vụ”.

- Ngày 10-3-2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 36 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27-11-2017, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 06-12-2017 cho đến nay tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Trương Doãn T Phạm Huy H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 27-11-2017, tổ công tác Công an phường K, thành phố Đ làm nhiệm vụ tại trước cửa số nhà 200 đường N, phường H, thành phố Đ phát hiện Lê Quang T điều khiển xe máy BKS: 18AA - 01914 có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra thu giữ trong túi quần bên trái T đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (T khai là Heroine). Tổ công tác đã niêm phong vật chứng rồi đưa T cùng người làm chứng về trụ sở Công an phường lập biên bản bắt người có hành vi phạm pháp quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của T 01 chiếc xe máy BKS: 18AA – 01914.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ. Tại bản kết luận giám định số 945/  ĐKTHS ngày 30-11-2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng thu giữ là chất ma túy, loại chất ma túy là Heroine, có khối lượng 0,126 gam (không phẩy một hai sáu gam).

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Lê Quang T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, đồng thời khai nhận về nguồn gốc gói ma túy như sau: Khoảng 18 giờ ngày 26-11-2017 T điều khiển xe máy BKS: 18AA– 01914 đi từ nhà đến khu vực ngã tư đường D – B, thành phố Đ mục đích để mua Heroine về sử dụng. Đến nơi, T mua của một nam thanh niên (không rõ lai lịch) đang đứng đường 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng rồi cất vào vỏ bao thuốc là Thăng Long để trong túi quần bên trái. Đến khoảng 12 giờ ngày 27-11-2017 T mang theo bao thuốc lá Thăng Long bên trong có gói Heroine cất trong túi quần bên trái đi mua dụng cụ về để sử dụng ma túy. Khi T đi đến khu vực trước cửa số nhà 200 đường N, phường H, thành phố Đ thì bị phát hiện bắt giữ.

Về nguồn gốc chiếc xe máy BKS: 18AA – 01914 T khai là tài sản của T mua bằng tiền T lao động. 

Đối với đối tượng đã bán gói ma túy cho T, tài liệu Cơ quan điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên đã tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.

Bản cáo trạng số 35/CT-VKSTPNĐ ngày 30-01-2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Lê Quang T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Lê Quang T tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội khóa 14; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999: xử phạt bị cáo Lê Quang T từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù; Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Xử lý vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Lê Quang T nói lời sau cùng: Xin Hội đồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Quang T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo Lê Quang T phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 12 giờ ngày 27-11-2017, Lê Quang T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,126 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang tại khu vực trước cửa số nhà 200 đường N, phường H, thành phố Đ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện nên bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Lê Quang T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình. Do đó bị cáo được hư  ng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội khóa 14 quy định áp dụng các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm 2015 theo hướng có lợi cho người phạm tội, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Xét bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị đưa ra xét xử về nhiều tội khác nhau cho thấy bị cáo là đối tượng khó giáo dục, cải tạo, coi thường pháp luật. Tuy nhiên khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ không lớn; bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 nên Hội đồng xét xử chỉ xử phạt bị cáo mức thấp của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Lê Quang T tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long đã thu giữ của bị cáo xét không có giá trị sử dụng nên cần áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để tịch thu tiêu hủy.

- Chiếc xe máy BKS: 18AA – 01914  (đã cũ) là tài sản riêng của bị cáo, xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử sẽ trả lại cho bị cáo, song tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Về án phí: Bị cáo Lê Quang T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội khóa 14.

- Áp dụng khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Lê Quang T 15 tháng tù (Mười lăm tháng tù). Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 27-11-2017.

2. Xử lý vật chứng:

- Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long và số ma túy đã thu giữ.

Trả lại cho bị cáo Lê Quang T 01 xe chiếc xe máy BKS: 18AA – 01914 (đã cũ) song tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29-01-2018).

3. Án phí:

- Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016. Bị cáo Lê Quang T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Bị cáo Lê Quang T được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2018/HS-ST ngày 09/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:29/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về