TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÔNG CỐNG, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 29/2017/HSST NGÀY 01/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 01/8/2017 tại Công sở xã Hoàng Sơn, Tòa án nhân dân huyện Nông Cống xét xử lưu động công khai sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 24/2017/HSST ngày 19/6/2017 đối với bị cáo:
Nguyễn Xuân A, sinh năm 1973, sinh và trú tại: Thôn X, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa lớp 6/12; con ông: Nguyễn Xuân K và bà: Nguyễn Thị C; có vợ là Đinh Thị T và 1 con sinh năm 1997; không tiền án, tiền sự; bị bắt tạm giữ 9 ngày, từ 31/5/2017 đến 09/6/2017 chuyển tạm giam tại trại tạm giam thuộc công an tỉnh Thanh Hóa đến nay; có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lê Văn T, sinh năm 1973 (vắng mặt).
Trú tại: Thôn X, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa.
NHẬN THẤY
Khoảng 17 giờ ngày 31/5/2017 Nguyễn Xuân A, sinh năm 1973 đang ở nhà tại xã T, huyện N thì có Lê Văn T ở xã T, huyện N là đối tượng nghiện ma túy gọi điện hỏi A mua 01 tép Heroine với giá 200.000đ để sử dụng. A đồng ý bán Heroine cho T và hẹn gặp T tại nhà của mình. Khoảng 17 giờ 30 phút T rủ Nguyễn Thanh H sinh năm 1990 trú ở thôn T, thị trấn N, huyện C cũng là đối tượng nghiện đến nhà A. Đến nhà, T lấy 200.000đ đưa cho A, A lấy 01 tép Heroine đưa cho T. Việc mua bán giữa hai đối tượng vừa thực hiện xong thì bị tổ tuần tra Công an huyện Nông Cống phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Thu trong người T 01 gói nhỏ nghi là Heroine, thu từ A 200.000đ tiền mua bán Heroine.
Qua quá trình khám xét khẩn cấp nơi ở, Nguyễn Xuân A đã tự nguyện giao nộp những đồ vật, tài liêu sau: 01 túi ni lông màu trắng bên trong chứa 03 cục chất màu trắng có kích thước khác nhau, 07 gói nhỏ có kích thước khác nhau bên ngoài đều được bọc bằng giấy trắng có dòng kẻ. Bên trong chứa chất bột màu trắng ngà nghi là Heroine.
Ngày 01 tháng 6 năm 2017 Cơ quan cảnh sát điều tra (sau đây viết là CSĐT) Công an huyện Nông Cống đã Quyết định trưng cầu giám định số 55/CANC. Tại bản kết luận giám định số 1340/MT-PC54 ngày 02 tháng 6 năm 2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:
- Chất bột dạng cục vụn màu trắng ngà của phong bì niêm phong kí hiệu M1 gửi giám định có trọng lượng 0,029g (không phẩy không hai chín gam) có Heroine.
- Chất bột dạng cục màu trắng ngà của phong bì niêm phong kí hiệu M2 gửi giám định có trọng lượng 2,753g (hai phẩy bảy năm ba gam) có Heroine.
Đối với Lê Văn Tuấn và Nguyễn Thanh Hà là 2 đối tượng nghiện ma túy, đã mua ma túy về sử dụng nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngày 15/6/3027 Cơ quan CSĐT Công an huyện Nông Cống đã xử phạt vi phạm hành chính trên về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về nguồn gốc Heroine, Nguyễn Xuân A khai: vào sáng ngày 31/5/2017 A bắt xe bus ra thành phố T, đi đến khu vực tượng đài L nhờ một người đàn ông không quan biết mua hộ với số tiền 800.000đ. Cơ quan CSĐT Công an huyện Nông Cống tiến hành xác minh về đối tượng A nhờ mua Heroine nhưng không có kết quả nên không có căn cứ để xử lý.
Vật chứng của vụ án:
- Toàn bộ bao gói niêm phong và 0,011g (không phẩy không một một gam) chất bột dạng cục vụn màu trắng ngà của phong bì niêm phong kí hiệu M1 và 2,740g (hai phẩy bảy tư không gam) chất bột dạng cục vụn màu trắng ngà của phong bì niêm phong ký hiệu M2 là các mẫu vật còn lại sau khi trích mẫu giám định. Tất cả được đựng trong một phong bì niêm phong do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín và niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đăng, Lưu Bình Nguyên, Nguyễn Viết Hưng và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.
- Tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam 200.000đ.
- 01 điện thoại di động OPPO màu đen, mang số Sim 01693.426.999 của Nguyễn Xuân Ân.
- 01 điện thoại di động SAMSUNG DUOS màu trắng mang số Sim 01672.300.585 của Lê Văn Tuấn.
Toàn bộ vật chứng đã được Cơ quan CSĐT Công an huyện Nông Cống chuyển đến Chi cục Thi hành án huyện Nông Cống ngày 19/6/2017.
Tại bản cáo trạng số 28/CTr -VKS ngày 18/6/2017 Viện kiểm sát nhân dân huyện Nông Cống đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo nhận tội, xin giảm nhẹ hình phạt.
- Kiểm sát phát biểu lời luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố và căn cứ Khoản 1, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 BLHS: đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo từ 36 tháng đến 42 tháng tù, phạt bổ sung từ 7.000.000đ đến 8.000.000đ. Về vật chứng đề nghị tịch thu, sung quỹ Nhà Nước 200.000đ và 2 chiếc điện thoại di động; tịch thu, tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định. Miễn án phí hình sự sơ thẩm (sau đây viết tắt là HSST) cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người làm chứng;
XÉT THẤY
Lời khai bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp các tài liệu trong hồ sơ vụ án, gồm: Lời khai bị cáo quá trình điều tra, biên bản phạm tội quả tang, lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Văn T; người làm chứng Nguyễn Thanh H cùng vật chứng được cơ quan điều tra trưng cầu giám định khối lượng tổng 2 mẫu vật là 2,782g có Heroine. Về hàm lượng Heroine, Cơ quan điều tra chưa trưng cầu nên Tòa án đã quyết định trưng cầu hàm lượng Heroine. Theo kết luận giám định số 1525/MT-PC54 ngày 28/6/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa hàm lượng Heroine trong chất bột mẫu M1 là 60,74%, mẫu M2 59,49%. Vậy trong 0,029g chất bột mẫu M1 có 0,0176g Heroine, trong 2,753 chất bột mẫu M2 có 1,6377g Heroine. Tổng 2 mẫu vật là 1,6553g Heroine.
Như vậy, đã chứng minh vào chiều ngày 31/5/2017 bị cáo A đã bán ma túy cho Lê Văn T, đủ cơ sở kết luận bị cáo A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với khối lượng ma túy nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nông Cống truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự (sau đây viết tắt là BLHS) là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Đánh giá tính chất vụ án, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội như sau: Ma túy có đặc tính gây nghiện, gây ảo giác cho người sử dụng, con người khi mắc nghiện là bị lệ thuộc vào ma túy. Việc sử dụng ma túy tùy tiện sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, làm suy yếu giống nòi. Do đặc tính đó nên Nhà nước độc quyền quản lý ma túy nghiêm ngặt, sử dụng chủ yếu trong lĩnh vực y tế khi thật sự cần thiết với chỉ định cụ thể, không cho phép lưu thông tự do, đồng thời đã tích cực tuyên truyền tác hại ma túy trong trường học và trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng. Bị cáo A nhận thức được tác hại của ma túy và biết việc mình mua bán ma túy là trái phép, bị pháp luật cấm nhưng với động cơ hám lợi cao vẫn liều lĩnh thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước về ma túy. Việc bị cáo mua bán trái phép chất ma túy là môi trường thuận lợi phát tán ma túy trôi nổi , len lỏi vào đời sống cộng đồng làm gia tăng số người nghiện, gieo rắc tai họa cho xã hội, làm mất trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm tội phạm về ma túy để chặn đứng loại tội phạm này nhằm ổn định địa bàn, giữ gìn cuộc sống bình yên cho con người.
Xét các tình tiết khác: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. Vì vậy, bị cáo được giảm nhẹ một phần hình phạt.
Về nhân thân: Bị cáo không tiền án, tiền sự.
Trên cơ sở đánh giá tính chất vụ án, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, nhân thân bị cáo, xét thấy cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian, đưa bị cáo vào môi trường giáo dục học tập lao động nghiêm khắc theo quy chế trại giam để trừng trị, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội. Về hình phạt bổ sung; bị cáo mua bán ma túy vì lợi nhuận nên cần phạt tiền bổ sung là thích hợp.
Về vật chứng: Ma túy là vật cấm lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định hàm lượng; tịch thu, sung quỹ Nhà nước 200.000đ; 2 chiếc điện thoại di động là phương tiện mà T dùng để liên lạc giao dịch mua bán ma túy nên tịch thu, sung quỹ Nhà nước.
Về án phí: Bị cáo bị kết án nhưng là hộ cận nghèo, thuộc diện miễn nộp án nên miễn án phí HSST.
Vì những lẽ trên;
Áp dụng: Khoản 1, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 BLHS:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân A 40 (bốn mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (31/5/2017).
Phạt bổ sung 8.000.000đ (tám triệu), nộp một lần.
Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự :
- Tịch thu, sung quỹ Nhà nước 200.000đ (hai trăm nghìn) tiÒn mua b¸n ma tóy; 02 chiếc điện thoại di động (đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/6/2017 giữa Công an huyện Nông Cống và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nông Cống).
- Tịch thu, tiêu số ma túy còn lại sau giám định hàm lượng (được niêm phong trong phong bì của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa và chữ ký của Nguyễn Trần Đăng, Trần Thị Thúy Hằng - Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa và chữ ký của Doãn Phương Liên - Thư ký Tòa án nhân dân huyện Nông Cống).
Về án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Miễn nộp án phí HSST cho bị cáo.
Sau khi án có hiệu lực pháp luật, nếu bị cáo không nộp đủ tiền thì hàng tháng còn phải chịu lãi suất theo quy định tại Điều 375 Bộ luật dân sự.
Án xử công khai có mặt bị cáo; vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 29/2017/HSST ngày 01/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 29/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nông Cống - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về