TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 285/2020/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 13 tháng 8 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 584/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2020, về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 45/2020/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1971. ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn X, xã K, huyện V, Thành phố Hà Nội.
(Có mặt tại phiên tòa) Bị đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm 1971.
ĐKHKTT: Thôn X, xã K, huyện V, Thành phố Hà Nội.
(Vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện vụ án xin ly hôn đề ngày 10/12/2020, bản tự khai và các lời khai tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án nhân dân huyện V cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn anh Nguyễn Mạnh C trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Mạnh C và chị Trần Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu và tổ chức lễ cưới khi được sự đồng ý của hai bên gia đình. Anh C và chị Hà làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND phường R, TP. Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế ngày 09/4/1999.
Sau khi kết hôn thì vợ chồng anh chị chung sống với nhau tại nhà riêng ở Huế sau đó đến năm 2010 thì bán nhà ở Huế và gia đình chuyển về xã K, huyện V, Thành phố Hà Nội ăn ở, sinh sống đến nay. Trong quá trình chung sống vợ chồng thì thường xuyên sảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân chính của mâu thuẫn vợ chồng xung quanh việc chị Hà không quan tâm chăm sóc gia đình, thường xuyên chơi cờ bạc, không chịu làm ăn. Vợ chồng thường xuyên cãi mắng nhau. Khi từ Huế ra chị Hà làm công việc kinh doanh vải may mặc ở chợ K nên có tiền, chị Hà tham gia chơi cờ bạc. Nhiều lần chị Hà đã vay mượn tiền để chơi cờ bạc dẫn đến vợ chồng cãi nhau thường xuyên hơn. Đến đầu năm 2017 mâu thuẫn của vợ chồng anh chị thực sự trầm trọng, hai vợ chồng thường xuyên cãi nhau, cuộc sống gia đình luôn căng thẳng, không có một lúc nào yên ấm. Chị Hà bỏ ra ngoài thuê trọ sinh sống. Lúc chị Hà thuê trọ chỗ này, lúc thuê trọ chỗ khác khi ở xã K, khi thấy thuê trọ bên xã Đình Xuyên, cụ thể địa chỉ ở đâu anh C không rõ. Cứ khoảng một, hai tuần chị Hà lại về thăm con đó lại đi. Khi mâu thuẫn vợ, chồng sảy ra anh, chị đã được hai bên gia đình khuyên giải và bản thân anh chị đã cố gắng cải thiện cuộc sống vợ chồng nhưng không có kết quả, bản thân chị Hà không muốn vợ chồng đoàn tụ, 02 vợ chồng sống ly thân, cắt đứt quan hệ vợ chồng từ đầu năm 2020 cho đến nay. Từ khi anh chị ly thân, cả 02 vợ chồng vẫn không thể nói chuyện được với nhau. Nay, anh C xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, anh, chị không thể hàn gắn, đoàn tụ gia đình được nữa. Anh C đề nghị Tòa án nhân dân huyện V xem xét, giải quyết cho chị được ly hôn với chị Hà để anh sớm ổn định cuộc sống và nuôi dạy, chăm sóc con chung.
Về con chung vợ chồng: Anh C xác nhân anh và chị Trần Thị H có 03 con chung là cháu Nguyễn Trọng Sơn Tùng sinh ngày 25/5/1999 (Cháu Tùng đã mất vào tháng 02 năm 2019); cháu Nguyễn Trọng Công Thành sinh ngày 09/2/2007; cháu Nguyễn Hà T sinh ngày 28/7/2004. Khi anh C và chị Hà ly thân và qúa trình giải quyết ly hôn thì cháu Thành, cháu T đang ở cùng nhà với anh cùng bố mẹ đẻ anh. Trong quá trình giải quyết vụ án thì anh C trình bày có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Thành, cháu T nếu được nuôi con chung thì anh không yêu cầu chị Hà đóng góp tiền nuôi con chung cho đến khi cháu Thành, cháu T trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác của pháp luật.
Về điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng con: Anh C hiện đang làm nhân viên tại Công ty xăng dầu khu vực 1, thu nhập bình quân là 10 triệu đồng/01 tháng. Anh C đang sống cùng bố mẹ đẻ tại Thôn X, xã K, huyện V, thành phố Hà Nội trên nhà cấp 4; diện tích nhà 279 m2, bố mẹ anh C tạo điều kiện cho anh C và các con của anh C được sinh sống lâu dài ở đây, anh C thấy mình có đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các con.
Về tài sản chung và công nợ chung vợ chồng: Anh C không yêu cầu tòa án xem xét, giải quyết.
Ngoài ra anh C không còn yêu cầu nào khác, không trình bày nội dung nào khác.
Bị đơn – chị Trần Thị H: Không có lời khai tại Tòa án vì quá trình giải quyết vụ án, chị Hà không hợp tác, không nhận bất cứ văn bản tố tụng nào của Tòa án và chưa bao giờ đến Tòa án để trình bày quan điểm của mình.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng bị đơn vẫn vắng mặt và không có ý kiến trả lời về việc anh Nguyễn Mạnh C xin ly hôn.
Đối với vụ án này Toà án không hòa giải được về quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng chăm sóc con chung vì vắng mặt bị đơn. Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa vì vậy việc xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Ngày 23/6/20020 TAND huyện V đã tiến hành lập các biên bản thu thập chứng cứ tại UBND xã K, huyện V, thành phố Hà Nội xác nhận:
Anh Nguyễn Mạnh C và chị Trần Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND phường R, TP. Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế ngày 09/4/1999.
Đến khoảng năm 2010 anh C và chị Hà về sinh sống tại nhà chồng Thôn X, xã K, huyện V, thành phố Hà Nội. Đến năm 2017 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn trầm trọng do chị Hà và anh C bất đồng quan điểm sống và sinh hoạt hàng ngày, dẫn đến cãi mắng nhau. Do mâu thuẫn căng thẳng nên chị Hà dọn ra ngoài ở riêng và thuê trọ để sinh sống. Lúc chị Hà thuê trọ ở xã Đình Xuyên, lúc thuê trọ ở xã K, cụ thể hiện nay chị Hà ở đâu thì Chính quyền địa phương không nắm được. Tuy nhiên, chị Hà vẫn về thăm con xong lại đi. Vợ chồng anh C, chị Hà ly thân từ năm 2017 cho đến nay.
Nay, anh C có đơn xin ly hôn với chị Hà, Chính quyền địa phương thấy vợ chồng anh chị đã ly thân một thời gian dài, vợ chồng không ăn ở sinh hoạt với nhau, không cùng nhau chăm lo cuộc sống gia đình. Đề nghị Tòa án huyện V căn cứ pháp luật để giải quyết.
Về con chung vợ chồng: Anh C và chị Hà có 03 con chung là cháu Nguyễn Trọng Sơn Tùng sinh ngày 25/5/1999 (Cháu Tùng đã mất đầu năm 2019); cháu Nguyễn Trọng Công Thành, sinh ngày 09/2/2007; cháu Nguyễn Hà T, sinh ngày 28/7/2004.
Điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng con của anh C: Hiện anh đang làm tại Công ty xăng dầu khu vực I, bố con anh C đang ở Thôn X, K, V, thành phố Hà Nội nhà đất có diện tích 279m2, các con chung của anh C và chị Hà đang ăn ở, sinh hoạt ổn định ở đây.
Điều kiện chăm sóc con của chị Hà: Chị Hà hiện nay đang thuê trọ, kinh doanh buôn bán mặt hàng gì địa phương không nắm được.
Quan điểm của Chính quyền địa phương: Khi Tòa án xem xét, giải quyết giao con cho ai, Tòa án căn cứ vào nguyện vọng của các cháu và điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng con của các bên nhằm bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho các cháu nhỏ.
Về tài sản chung và công nợ chung vợ chồng: Chính quyền địa phương không nắm được.
Ngày 07/02/2020 cháu Nguyễn Trọng Thành Công và ngày 8/6/2020 cháu Nguyễn Hà T con anh C và chị Hà có lời trình bày tại Tòa án, các cháu có nguyện vọng muốn sống cùng anh C khi bố mẹ ly hôn.
Ngày 04/02/2020 bà Hoàng Thị Tiến mẹ đẻ anh C, người sống cùng nhà với vợ chồng anh C có lời khai về mâu thuẫn vợ chồng anh C và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng con của anh C.
Tại phiên tòa ngày hôm nay:
Anh Nguyễn Mạnh C vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với chị Trần Thị H và nội dung các lời khai mà anh đã trình bày tại Tòa án.
Chị Trần Thị H vắng mặt không có lý do.
Đại điện viện kiểm sát nhân dân huyện V phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự và ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Thẩm phán, Hội đồng xét xử đều thực hiện đúng các quy định của pháp luật về thủ tục Tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm trước khi Hội đồng xét xử nghị án. Người tham gia tố tụng tại phiên tòa, nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị đơn không chấp hành nghiêm túc các quy định của pháp luật về Tố tụng dân sự thể hiện qua việc vắng mặt tại phiên tòa và quá trình tố tụng giải quyết vụ án không có lý do.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30.12.2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội; khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho Anh Nguyễn Mạnh C được ly hôn với chị Trần Thị H.
Về con chung: Anh C và chị Hà 03 con chung tên cháu Nguyễn Trọng Sơn Tùng sinh ngày 25/5/1999 (Cháu Tùng đã mất đầu năm 2019); cháu Nguyễn Trọng Công Thành sinh ngày 09/2/2007; cháu Nguyễn Hà T sinh ngày 28/7/2004. Xử giao cho anh Nguyễn Mạnh C được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Trọng Công Thành sinh ngày 09/02/2007; cháu Nguyễn Hà T sinh ngày 28/7/2004. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với chị Trần Thị H cho đến khi cháu Thành, cháu T trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc đến khi có yêu cầu mới.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét, giải quyết. Tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thẩm quyền: Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Trong vụ án, bị đơn là chị Trần Thị H có Đăng ký hộ khẩu thường trú và hiện nay đang cư trú tại huyện V, Thành phố Hà Nội nên căn cứ vào Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện V, Thành phố Hà Nội.
Bị đơn, chị Trần Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 02 nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không phải vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Mạnh C và chị Trần Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu và tổ chức lễ cưới khi được sự đồng ý của hai bên gia đình. Anh C và chị Hà làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND phường R, TP. Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế ngày 09/4/1999. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Xét tại quá trình chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa anh C cùng trình bày đã sống ly thân với chị Hà từ năm 2017 đến nay. Như vậy lời khai của anh C, phù hợp với chứng cứ chính quyền địa phương, người làm chứng cung cấp đủ cơ sở kết luận anh C và chị Hà sống ly thân với nhau từ năm 2017 đến nay. Từ khi anh chị ly thân, cả 02 vợ chồng vẫn không thể nói chuyện được với nhau. Khi mâu thuẫn vợ, chồng sảy ra anh, chị đã được hai bên gia đình khuyên giải và bản thân anh, chị đã cố gắng cải thiện cuộc sống vợ chồng nhưng không có kết quả. Nay, anh C xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, chúng tôi không thể hàn gắn, đoàn tụ gia đình được nữa. Anh C đề nghị Tòa án nhân dân huyện V xem xét, giải quyết cho anh được ly hôn với chị Hà để anh sớm ổn định cuộc sống và nuôi dạy, chăm sóc con chung.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập chị Hà đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng chị Hà đều vắng mặt vì chị Hà không có nhà. Tòa án đã kết hợp với chính quyền địa phương nhiều lần đến tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng chị Hà đều không đến Tòa án để tham gia giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Như vậy, sau khi vợ chồng xẩy ra mâu thuẫn trầm trọng, anh C và chị Hà đã sống ly thân. Chị Hà không quan tâm đến anh C và người thân trong gia đình, qua đó thể hiện chị Hà không có ý thức hàn gắn tình cảm khi vợ chồng xẩy ra mâu thuẫn, vợ chồng đã không chung sống với nhau được một thời gian rất dài. Quá trình Tòa án giải quyết ly hôn, xét xử Tòa án đã áp dụng các biện pháp để thông báo cho chị Hà đến Tòa án để tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng chị Hà vẫn vắng mặt không đến tòa án để tham gia giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Như vậy, anh C trình bày là vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng và anh chị đã ly thân từ đầu năm 2017 là có căn cứ.
Theo quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014, quy định: “Vợ chồng phải, thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình và xã hội”. Như vậy, mục đích hôn nhân của vợ chồng của anh C và chị Hà không đạt được, đời sống chung vợ chồng đã chấm dứt. Do vậy, xét thấy cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh C là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3]. Nhận định về con chung: Vì chị Hà không đến Tòa án, nên căn cứ vào lời khai của anh C và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ xác định anh C và chị Hà có 03 con chung là cháu Nguyễn Trọng Sơn Tùng sinh ngày 25/5/1999 (Cháu Tùng đã mất đầu năm 2019); cháu Nguyễn Trọng Công Thành sinh ngày 09/2/2007; cháu Nguyễn Hà T sinh ngày 28/7/2004. Khi anh C và chị Hà ly thân và qúa trình giải quyết ly hôn thì cháu Thành, cháu T đang ở cùng nhà với anh cùng bố mẹ đẻ anh. Trong quá trình giải quyết vụ án thì anh C trình bày có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Thành, cháu T nếu được nuôi con chung thì anh không yêu cầu chị Hà đóng góp tiền nuôi con chung cho đến khi cháu Thành, cháu T trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác của pháp luật. Đến nay, Tòa án chưa lấy được lời khai của chị Hà, không nắm được nguyện vọng cũng như điều kiện chăm sóc con của chị Hà. Anh C có nguyện vọng nuôi 02 cháu, các cháu cũng có nguyện vọng được sống chung cùng với anh C. Để tránh xáo trộn cuộc sống của con chung của anh C và chị Hà và cũng như để đảm bảo quyền lợi của cháu nên Hội đồng xét xử xét thấy cần giao các con chung là các cháu Nguyễn Trọng Công Thành sinh ngày 09/2/2007; cháu Nguyễn Hà T sinh ngày 28/7/2004 cho anh C được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là hợp tình, hợp lý, đúng với quy định của pháp luật và cũng phù hợp với nguyện vọng của anh C. Anh C không yêu cầu chị Hà phải có trách nhiệm đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung, Tòa án đã giải thích pháp luật cho anh C về việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn nhưng anh C vẫn không yêu cầu chị Hà phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung nên Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận và tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung đối với chị Hà cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc đến khi có yêu cầu mới.
[4]. Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Anh C không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên HĐXX không xem xét, giải quyết.
[5]. Nhận định về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh C phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 56, 57, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30.12.2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Căn cứ Luật thi hành án dân sự.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Mạnh C đối với chị Trần Thị H. Anh Nguyễn Mạnh C được ly hôn với chị Trần Thị H.
2. Về con chung: Anh C và chị Hà có 03 con chung là cháu Nguyễn Trọng Sơn Tùng sinh ngày 25/5/1999 (Cháu Tùng đã mất đầu năm 2019); cháu Nguyễn Trọng Công Thành sinh ngày 09/2/2007; cháu Nguyễn Hà T sinh ngày 28/7/2004. Giao cháu Thành và cháu T cho anh C trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng đến khi các cháu đủ trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc đến khi có yêu cầu mới. Tạm hoãn nghĩa vụ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung đối với chị Hà cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc đến khi có yêu cầu mới.
Chị Hà có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Anh Nguyễn Mạnh C phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Anh C đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2010/0004960 ngày 17/12/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện V, nay được chuyển thành án phí ly hôn. Anh Nguyễn Mạnh C không phải nộp thêm tiền án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn - anh Nguyễn Mạnh C, vắng mặt bị đơn – chị Trần Thị H. Báo cho anh C có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Hà vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 285/2020/HNGĐ-ST ngày 13/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 285/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 13/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về