Bản án 28/2021/HS-ST ngày 31/03/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 28/2021/HS-ST NGÀY 31/03/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 31 tháng 3 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2021/TLST-HS ngày 03 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2021/QĐXXST - HS ngày 26 tháng 02 năm 2021 và Thông báo mở lại phiên tòa số 02/2021 ngày 22 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Đức H, tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 16 tháng 4 năm 1972 tại Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 7/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Quê quán: Xuân Thành, Nghi Xuân, Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn Thanh V, xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Cha: Nguyễn Thái Y (đã chết); Mẹ: Đậu Thị B (đã chết); Vợ: Phan Thị H, SN: 1971; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Nơi cư trú: Thôn Thanh V, xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Con: Có 02 người con, lớn nhất, SN: 1998, nhỏ nhất, SN: 2000; Anh chị em ruột: Có 5 người, bị cáo là con thứ 4.

Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Ngày 06/9/2019, bị Công an huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh xử phạt hành chính về hành vi “Đánh bạc trái phép” với số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) theo quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0001708;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2020 đến ngày 02/02/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn nay có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Dương Văn M, Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 25 tháng 9 năm 1975 tại: Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Trình độ văn hóa: 0/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quê quán: Cổ Đạm, Nghi Xuân, Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn Vân Thanh B, xã Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Cha: Dương Văn H (đã chết); Mẹ: Phan Thị Q (đã chết); Vợ: Phan Thị B, SN: 1973; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Thôn Vân Thanh B, xã Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Con: Có 5 người con, lớn nhất, SN: 1996, nhỏ nhất, SN: 2004;Anh chị em ruột: Có 5 người, bị cáo là con thứ 3; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+Năm 1996 bị Toà án nhân dân huyện Nghi Xuân xử phạt 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản công dân” theo bản án số 20/HSST ngày 18/7/1996 đã chấp hành xong Bản án;

+ Năm 2002 bị TAND tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 9 tháng tù giam, phạt tiền 3 triệu đồng, ngày 24/12/2002 TAND Tối cao xử phúc thẩm 9 tháng tù treo, thử thách 36 tháng kể từ ngày 24/12/2002 về tội: “Đánh bạc”, ngày 22/4/2010 bị cáo thi hành xong hình phạt tiền;

+Năm 2010 bị Toà án nhân dân huyện Nghi Xuân xử phạt 05 tháng tù giam về tội “Đánh bạc” theo bản án số 34/HSST ngày 30/8/2010 đã chấp hành xong Bản án;

+Năm 2013 bị Toà án nhân dân huyện Nghi Xuân xử phạt 05 tháng tù giam về tội “Đánh bạc” theo bản án số 48/HSST ngày 24/10/2013 đã chấp hành xong Bản án;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2020 đến ngày 02/02/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn nay có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Trần Văn Th, tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 06 tháng 03 năm 1979 tại: Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Trình độ văn hóa: 06/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quê quán: Xuân Thành, Nghi Xuân, Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn Thành H, xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Cha: Trần Văn Đ, SN: 1950; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Mẹ: Trịnh Thị T, SN: 1949; Nghề nghiệp: Làm ruộng; (Cả hai đều trú tại Thôn Thành H, xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh); Vợ: Lữ Thị H, SN: 1985 (đã ly hôn); Con: Có 01 người, SN: 2009; Anh chị em ruột: Có 5 người, bị cáo là con thứ 3.

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

+Năm 2006, bị Toà án nhân dân huyện Nghi Xuân xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo bản án số 30/HSST ngày 11/10/2006 đã chấp hành xong Bản án;

+Năm 2010, bị Toà án nhân dân huyện Nghi Xuân xử phạt 30 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo bản án số 04/HSST ngày 23/11/2010 đã chấp hành xong Bản án;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2020 đến ngày 18/12/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn nay có mặt tại phiên tòa.

4. Họ và tên: Trần Gia L, Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 12 tháng 9 năm 1969 tại: Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ Văn hóa: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quê quán: Xuân Thành, Nghi Xuân, Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn Thanh V, xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Cha: Trần Văn V (đã chết); Mẹ: Lê Thị K, SN: 1940; Nơi cư trú: Thôn Thanh V, xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Vợ: Trần Thị T, SN: 1975; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con: Có 04 người, lớn nhất SN: 1999, nhỏ nhất SN: 2013; Anh chị em ruột: Có 6 người, bị cáo là con thứ 3.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân Thân: Ngày 12/02/2018, bị Công an huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh xử phạt hành chính về hành vi “Đánh bạc trái phép” với số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) theo quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0000311;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2020 đến ngày 18/12/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn nay có mặt tại phiên tòa.

5. Họ và tên: Hoàng Thị T, Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 10 tháng 6 năm 1978 tại: Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quê quán: Xuân Thành, Nghi Xuân, Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn Hương H, xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Cha: Hoàng Ng (đã chết); Mẹ: Phạm Thị B, SN: 1933; Thường trú tại: Thôn Hương H, xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Chồng: Hoàng Đình Nh, SN: 1969; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con: Có 2 người con, lớn nhất SN: 2001, nhỏ nhất SN: 2002; Anh chị em ruột: Có 7 người, bị cáo là con út.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 16/12/2020, Nguyễn Đức H đi đến nhà Hoàng Thị T ở thôn Hương Hoà, xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh ngồi chơi uống nước nói chuyện với Hoàng Thị T. Một lúc sau thì có Dương Văn M, Trần Văn Th và Trần Gia L đến. Tại đây H, M, Th và L cùng ngồi uống nước, nói chuyện trong phòng khách nhà T thì H rủ mọi người đánh bạc với hình thức đánh bài “Phỏm” ăn tiền mỗi ván “Ù” 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) thì M, Th và L đồng ý đánh. Lúc này mọi người nói T lấy cho bộ bài thì T đi lại tủ của gia đình lấy ra 02 bộ bài Tu lơ khơ màu xanh loại 52 quân, còn M lấy 01 chiếc chiếu nhựa (chiếu của gia đình T) có sẵn tại phòng trải ra giữa phòng khách của gia đình T. Sau đó H, M, Th và L cùng nhau đánh bạc với hình thức đánh bài Phỏm “Ù” mỗi ván 50.000đ, cách thức đánh cụ thể là: Sử dụng bộ bài Tu lơ khơ loại 52 quân đựơc chia thành 13 loại quân bài và đánh số thứ tự từ quân Át tới quân K, trong đó mỗi quân bài có 04 lá bài quy ước gồm cơ, rô, chuồn, bích.

Khi đánh thì người chơi được chia 09 lá bài, riêng người chia bài (người vừa thắng ván bài liền trước đó) được 10 quân bài, số bài còn lại bỏ giữa chiếu gọi là “Nọc”. Người chia bài sẽ là người đánh đầu tiên theo hướng từ phải qua trái (ngược chiều kim đồng hồ) nếu người bên cạnh có quân bài trùng (hợp với quân bài người trước vừa đánh tạo thành phỏm) thì sẽ ăn quân bài đó còn nếu không sẽ bốc một lá bài mới tại “Nọc”. Rồi lần lượt cứ thế đánh cho đến lúc có người “Ù” hoặc bốc hết bài “Nọc” thì sẽ tính thắng, thua bằng cách tính điểm số của từng người. “Phỏm” ở đây được tính là có từ 03 hoặc 04 quân bài giống nhau, ví dụ có 03 quân át hoặc 04 quân k hoặc có từ 03 quân bài thứ tự liền kề nhau trở lên có cùng chất bài, ví dụ có các quân Hai, Ba, Bốn có cùng chất Cơ hoặc Rô hoặc Chuồn hoặc Bích thì được gọi là “Phỏm”. Quá trình đánh nếu bài ai có 03 (ba) phỏm hoặc có 02 (hai) phỏm nhưng có 01 (một) phỏm loại 04 quân bài và 01(một) phỏm loại 05 quân bài thì người đó “Ù”. Khi có người “Ù” thì những người còn lại sẽ phải trả cho người “Ù” số tiền là 50.000đ.

Nếu trong ván đánh ai đánh để người khác ăn 03 (ba) quân bài thì sẽ bị “Ù đền”, người bị “Ù đền” sẽ phải trả cho người “Ù” số tiền là 150.000đ, còn những người còn lại không phải trả tiền.Trong ván đánh nếu có người “Ù” thì họ sẽ trích ra 10.000đ gọi là tiền “Hồ” cho Hoàng Thị T. Nếu khi bốc hết “Nọc” mà không có ai “Ù” thì ai trên bài có phỏm và có số điểm ít nhất thì người đó thắng, đồng thời nhận được số tiền 60.000đ, tiền này do người thứ hai trả 10.000đ, người thứ ba trả 20.000đ và người thức tư trả 30.000đ. Nếu bài ai “Cháy” (không có phỏm) thì bị mất 40.000đ cho người thứ nhất còn ai đánh để người khác ăn quân “Chốt” (quân bài cuối của lượt đánh cuối cùng) thì bị mất cho người ăn số tiền là 10.000đ. Khi tham gia đánh bài “Phỏm” ăn tiền, Nguyễn Đức H sử dụng số tiền khoảng 7.000.000đ (bảy triệu đồng),Dương Văn M sử dụng số tiền khoảng hơn 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng), Trần Văn Th sử dụng số tiền khoảng 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) và Trần Gia L sử dụng số tiền khoảng 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng). Đến 15 giờ 30 phút cùng ngày, tổ công tác Công an huyện Nghi Xuân phát hiện tại nhà Hoàng Thị T các đối tượng gồm Nguyễn Đức H, Dương Văn M, Trần Văn Th và Trần Gia L đang đánh bạc với hình thức đánh bài Phỏm ăn tiền thu giữ tại chiếu bạc số tiền: 3.060.000đ (ba triệu không trăm sáu mươi nghìn đồng), thu giữ trong người các đối tượng 6.550.000đ (sáu triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) trong đó: thu của H số tiền là 5.000.000 đ (năm triệu đồng), thu của Th số tiền: 500.000đ (năm trăm nghìn đồng), thu của L số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng) và thu trong người T số tiền: 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) đây là tiền các đối tượng bốc hồ cho T trong quá trình đánh bạc. Tổng cộng số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc là 9.610.000đ (chín triệu sáu trăm mười nghìn đồng) cùng với 02 bộ bài Tú lơ khơ loại 52 quân và 01 chiếc chiếu nhựa. Sau đó Công an huyện Nghi Xuân lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ toàn bộ số tiền cùng tang vật có liên quan đưa các đối tượng về Cơ quan CSĐT Công an huyện Nghi Xuân để làm việc.

* Vật chứng vụ án gồm:

- Số tiền: 9.610.000đ (chín triệu sáu trăm mười nghìn đồng) là tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam;

- 02 (hai) bộ bài tú lơ khơ loại 52 quân bài màu xanh; 01 (một) chiếc chiếu nhựa có hoa văn màu đỏ trắng, kích thước 160 x 200cm. Tất cả các vật chứng hiện đang được thu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Đức H, Dương Văn M, Trần Văn Th, Trần Gia L và Hoàng Thị T đã khai nhận đầy đủ hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 10/CT-VKS-NX, ngày 03 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố các bị cáo Nguyễn Đức H, Dương Văn M, Trần Văn Th, Trần Gia L và Hoàng Thị T về tội “Đánh bạc”.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng tại khoản 1 (Trần Gia L thêm khoản 3) Điều 321, điểm i, s (Dương Văn M và Trần Văn Th không áp dụng điểm i vì không thuộc trường hợp phạm tội lần đầu) khoản 1 (Trần Văn Th thêm khoản 2 vì gia đình thuộc hộ cận nghèo) Điều 51, Điều 17, Điều 38 (đối với Nguyễn Đức H và Dương Văn M) , Điều 58, Điều 65 (đối với Trần Văn Th và Trần Gia L), Điều 35 (đối với Hoàng Thị T) của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Các bị cáo Nguyễn Đức H và Dương Văn M mỗi bị cáo 6 – 8 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2020 đến ngày 02/02/2021.

Xử phạt: Các bị cáo Trần Văn Th và Trần Gia L mỗi bị cáo 6 – 8 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 - 16 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Thị T phạt tiền là hình phạt chính với số tiền từ 30.0000.000đ đến 40.000.000đ sung công quỹ Nhà nước.

- Hình phạt bổ sung: Xử phạt bị cáo Trần Gia L 10.000.000đ – 15.000.000đ để sung công quỹ Nhà nước. Bị cáo Trần Văn Th không phạt bổ sung vì gia đình thuộc hộ cận nghèo.

* Về biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; các điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền: 9.610.000đ (chín triệu sáu trăm mười nghìn đồng) là tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam các bị cáo sử dụng để đánh bạc;

Tịch thu tiêu huỷ: 02 (hai) bộ bài tú lơ khơ loại 52 quân bài màu xanh; 01 (một) chiếc chiếu nhựa có hoa văn màu đỏ trắng, kích thước 160 x 200cm;

Về án phí : Các bị cáo Nguyễn Đức H, Dương Văn M, Trần Gia L và Hoàng Thị T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm, riêng bị cáo Trần Văn Th gia đình thuộc hộ cận nghèo đề nghị miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, không có tranh luận và chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Nghi Xuân; Kiểm sát viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan, những người tiến hành tố tụng. Nên hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Nội dung vụ án: Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy HĐXX có đủ kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 16/12/2020, Nguyễn Đức H, Dương Văn M, Trần Văn Th và Trần Gia L rủ nhau đánh bạc với hình thức đánh bài “Phỏm” ăn tiền mỗi ván “Ù” 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) tại phòng khách nhà Hoàng Thị T. Mức độ được thua cao nhất là 150.000đ, thấp nhất là 60.000đ.

Hoàng Thị T là chủ nhà đã cung cấp bài tú lơ khơ cho H, M, Th và L đồng thời cho các đối tượng dùng nhà ở của gia đình mình để đánh bạc và đã được hưởng 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) tiền hồ. Trong lúc đang đánh bạc thì lực lượng Công an huyện Nghi Xuân phát hiện bắt quả tang thu giữ số tiền: 9.610.000đ (chín triệu sáu trăm mười nghìn đồng) là tiền mà các bị cáo dùng đánh bạc nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Đức H, Dương Văn M, Trần Văn Th, Trần Gia L và Hoàng Thị T phạm tội “ Đánh bạc” như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh truy tố là đúng người, đúng tội.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự quản lý hành chính tại địa phương là nguyên nhân gây ra tệ nạn xã hội khác trên địa bàn, bị dư luận xã hội lên án, pháp luật nghiêm cấm. Các bị cáo đều là những người có nhận thức pháp luật, biết hành vi đánh bạc bị nghiêm cấm, song do ham chơi bột phát, ý thức chấp hành pháp luật kém nên phạm tội. Vì vậy, cần xử lý nghiêm để giáo dục phòng ngừa chung.

Xét vị trí, vai trò của các bị cáo trong vụ án: Nguyễn Đức H là người khởi xướng đồng thời cùng với Dương Văn M, Trần Văn Th và Trần Gia L trực tiếp tham gia đánh bạc. Đối với Hoàng Thị T là chủ nhà, tuy không trực tiếp tham gia đánh bạc, nhưng T là người cung cấp bài tú lơ khơ cho H, M, Th và L đồng thời T cho các đối tượng dùng nhà ở của gia đình mình để đánh bạc và được hưởng lợi từ việc đánh bạc.

Bị cáo Nguyễn Đức H sử dụng số tiền khoảng 7.000.000đ (bảy triệu đồng) để đánh bạc, bị cáo Dương Văn M sử dụng số tiền khoản 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng) để đánh bạc, bị cáo Trần Văn Th sử dụng số tiền khoảng 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) để đánh bạc, bị cáo Trần Gia L sử dụng số tiền khoảng 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) để đánh bạc, bị cáo Hoàng Thị T mặc dù không tham gia đánh bạc nhưng được hưởng lợi 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) từ việc đánh bạc.

Xem xét tính chất, hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo HĐXX nhận thấy vị trí, vai trò và trách nhiệm hình sự của các bị cáo trong vụ án Đối với các bị cáo Nguyễn Đức H, Dương Văn M các bị cáo đều có nhân thân xấu Huệ đã từng bị xử phạt hành chính về tội đánh bạc, M đã nhiều lần bị xét xử trong đó có 3 lần về tội đánh bạc và 01 lần về tội trộm cắp tài sản nên cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để nhằm cải tạo giáo dục các bị cáo. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo như thành khẩn khai báo quy định tại điểm s (H thêm điểm i) khoản 1 Điều 51 BLHS.

Đối với các bị cáo Trần Văn Th về nhân thân đã có 02 lần bị xét xử song khổng phải là tội đánh bạc và bị cáo Trần Gia L có nhân thân từng bị xử phạt hành chính về tội đánh bạc. Tuy nhiên , khi quyết định hình phạt cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo như thành khẩn khai báo, quy định tại điểm s (Trần Gia L thêm điểm i) khoản 1 Điều 51 của BLHS, các bị cáo gia đình cũng khó khăn, việc cách ly các bị cáo ảnh hưởng đến đời sống kinh tế gia đình, vì vậy cho các bị cáo được hưởng án treo là phù hợp Nghị quyết 02/2018/HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 65 BLHS.

Đối với bị cáo Hoàng Thị T là người được hưởng lợi từ việc đánh bạc tuy nhiên bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS vì vậy áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với bị cáo là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: HĐXX cho rằng các bị cáo Nguyễn Đức H và Dương Văn M trong vụ án đều là lao động chính trong gia đình, nghề nghiệp không ổn định, hình phạt chính áp dụng là hình phạt tù đã đủ nghiêm nên áp dụng thêm hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo bị phạt tù giam sẽ gây khó khăn về kinh tế, ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình các bị cáo. Bị cáo Trần Văn Th gia đình thuộc hộ cận nghèo nên không phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp. Đối với bị cáo Trần Gia L áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) là phù hợp.

Xử lý vật chứng:

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 9.610.000VND (chín triệu sáu trăm mười nghìn đồng) là tiền dùng để đánh bạc;

Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) bộ bài tú lơ khơ loại 52 quân bài màu xanh; 01 (một) chiếc chiếu nhựa có hoa văn màu đỏ trắng, kích thước 160 x 200cm các vật chứng này không còn giá trị sử dụng.

[3]. Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân:

Về áp dụng điều luật và hướng giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của HĐXX.

[4]. Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Đức H, Dương Văn M, Trần Gia L và Hoàng Thị T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật, bị cáo Trần Văn Th được miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ khoản 1 (Trần Gia L thêm khoản 3) Điều 321, điểm i, s (Dương Văn M và Trần Văn Th không áp dụng điểm i) khoản 1, (Trần Văn Th thêm khoản 2) Điều 51, Điều 17, Điều 38 (Đối với Nguyễn Đức H và Dương Văn M), Điều 58, Điều 65 (đối với Trần Văn Th và Trần Gia L); Điều 35 (đối với Hoàng Thị T) của Bộ luật hình sự.

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, b, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 6, khoản 1 điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 (riêng bị cáo Trần Văn Th chỉ áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12) Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

[2]. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đức H, Dương Văn M, Trần Văn Th, Trần Gia L và Hoàng Thị T phạm tội “Đánh bạc”.

[3]. Xử phạt: Các bị cáo Nguyễn Đức H và Dương Văn M mỗi bị cáo 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2020 đến ngày 02/02/2021.

Xử phạt: Các bị cáo Trần Văn Th và Trần Gia L mỗi bị cáo 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao các bị cáo Trần Văn Th và Trần Gia L cho UBND xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự 2019.

Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Thị T phạt tiền là hình phạt chính số tiền 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

- Hình phạt bổ sung: Xử phạt bị cáo Trần Gia L 10.000.000đ (mười triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

[4]. Xử lý vật chứng: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 9.610.000VND (chín triệu sáu trăm mười nghìn đồng) đang được tạm giữ trong tài khoản tạm giữ của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh;

Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) bộ bài tú lơ khơ loại 52 quân bài màu xanh; 01 (một) chiếc chiếu nhựa có hoa văn màu đỏ trắng, kích thước 160 x 200cm.

Đặc điểm vật chứng có tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/02/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

[5]. Về án phí: Buộc các bị cáo Nguyễn Đức H, Dương Văn M, Trần Gia L và Hoàng Thị T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Trần Văn Th được miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[6]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2021/HS-ST ngày 31/03/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:28/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về