Bản án 28/2021/HS-ST ngày 27/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 28/2021/HS-ST NGÀY 27/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 27 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2021/HS-ST ngày 05/01/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2021/QĐXXST-HS ngày 12/01/2021, đối với các bị cáo:

1. Đỗ Hải H – sinh năm 1982; Tên gọi khác: không; Giới tính: nam;

Đăng ký hộ khẩu thường trú: khu 3, phường Đ, thành phố B, tỉnh B; chỗ ở: phố N, phường N, quận L, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Đức T và bà Đỗ Thị T; có vợ: Lê Thị D và có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: không; danh chỉ bản số: 611, lập ngày 19/9/2020 tại Công an quận Đống Đa; bị cáo bị bắt (quả tang) ngày 17/9/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 01 – Công an Thành phố Hà Nội.

(Có mặt tại phiên tòa).

2. Lê Thị D – sinh năm 1985; Tên gọi khác: không; Giới tính: nữ; Đăng ký hộ khẩu thường trú: khu 3, phường Đ, thành phố B, tỉnh B; chỗ ở: phố N, phường N, quận L, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc:

Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Tiến D (đã chết) và bà Hoàng Thị A; có chồng: Đỗ Hải H và có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: không; danh chỉ bản số: 608, lập ngày 19/9/2020 tại Công an quận Đống Đa; bị cáo bị bắt (quả tang) ngày 17/9/2020, hủy bỏ biện pháp tạm giữ ngày 25/9/2020. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

(Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 40 phút ngày 17/9/2020, tại đường L, phường L, quận Đ, Hà Nội, tổ công tác Y9/KH141 – Công an Thành phố Hà Nội phát hiện Đỗ Hải H đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda 82 màu xanh có biển kiểm sát: 89F7-2812, ngồi phía sau xe là Lê Thị D (vợ của H) có biểu hiện nghi vấn đã tiến hành dừng xe để kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, D đã tự lấy từ túi quần trước bên trái ra giao nộp cho cơ quan Công an 01 túi nilon kích thước (03x03)cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng và 01 túi nilon kích thước (03x03)cm bên trong có chứa 03 viên nén hình chữ nhật màu xám. Ngoài ra, cơ quan Công an còn tạm giữ của H 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda 82 màu xanh có Biển kiểm soát: 89F7-2812 và tạm giữ của D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi màu xanh dương – đen.

Tại Kết luận giám định số 8418/KLGĐ-PC09 ngày 25/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông là ma túy loại Ketamine, khối lượng: 1,679 gam.

- 03 viên nén màu xám hình chữ nhật bên trong 01 túi ni lông đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng: 1,102 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Hải H và Lê Thị D khai nhận hành vi phạm tội của mình. Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, H và D khai: khoảng 22 giờ 00’ ngày 17/9/2020, H bàn bạc với D cùng nhau đi mua ma túy mục đích để sử dụng, H sử dụng điện thoại di động của D có số 0904658863 gọi đến số 0968221970 của người phụ nữ tên T (không rõ họ tên, địa chỉ) đặt vấn đề mua 01 chỉ ma túy “Ketamine” và 03 viên ma túy tổng hợp với giá 5.200.000 đồng, T đồng ý và hẹn giao ma túy tại khu vực phố K. Sau đó, H điều khiển xe mô tô chở D đến nơi hẹn và H xuống xe gặp và mua ma túy của 01 nam thanh niên (không rõ tên, địa chỉ) số ma túy trên với giá 5.200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, H đưa cho D cất giữ vào túi quần phía trước bên trái và H điều khiển xe mô tô chở D đi tìm nơi sử dụng. Khi đến khu vực đường L thì bị Tổ công tác Y9/KH141 – Công an Thành phố Hà Nội kiểm tra, phát hiện, bắt giữ.

Đối với số điện thoại: 0968221970 của đối tượng T bán ma túy cho H, quá trình điều tra, xác minh tại Tập đoàn công nghiệp – viễn thông Quân Đội xác nhận chủ đăng ký thuê bao là Lê Tuấn Đ (sinh năm 1970, hộ khẩu thường trú: phố K, phường P, quận Đ, Hà Nội). Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Đống Đa chưa triệu tập được Lê Tuấn Đ. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Đống Đa đã ra Quyết định tách toàn bộ tài liệu liên quan đến đối tượng T để tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda 82 biển kiểm soát: 89F7-2812 xác định thuộc sở hữu của anh Đặng Việt C (sinh năm: 1986; hộ khẩu thường trú: xã T, huyện Y, Hưng Yên). Xét không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe mô tô trên cho anh C.

Đối với số ma túy và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi màu xanh dương – đen tạm giữ của Lê Thị D, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Đống Đa đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa để xử lý theo quy định của pháp luật.

Bản cáo trạng số 15/CT-VKSĐĐ ngày 04/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội đã truy tố: Đỗ Hải H, Lê Thị D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Đỗ Hải H và Lê Thị D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

- Điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt: Đỗ Hải H từ 26 tháng đến 30 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt: Lê Thị D từ 24 tháng đến 28 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy vật chứng là ma túy.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh dương - đen.

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo, lời khai người làm chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và vật chứng thu được trong vụ án. Các bị cáo Đỗ Hải H, Lê Thị D đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,679 gam ma túy loại Ketamine và 1,102 gam ma túy loại MDMA mục đích để sử dụng. Hành vi nêu trên của các bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa truy tố các bị cáo theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng. Hành vi của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm, tiếp tay cho tệ nạn ma túy ngày càng phát triển. Các bị cáo là người đã trưởng thành, nhận biết rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy cần phải xử phạt các bị cáo hình phạt tù có thời hạn rất nghiêm khắc mới bảo đảm tác dụng cải tạo giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Đỗ Hải H và Lê Thị D đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, thái độ ăn năn hối cải, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo phạm tội có tính chất đồng phạm giản đơn, tuy nhiên vai trò đồng phạm của các bị cáo trong vụ án là khác nhau. Xét vai trò của bị cáo H là người rủ rê bị cáo D đi mua ma túy, bị cáo cũng là người trực tiếp liên lạc với người bán ma túy và là người chở bị cáo D cùng đi, bị cáo H đồng thời là người trực tiếp thực hiện việc giao dịch mua ma túy với người bán; tại phiên tòa, bị cáo H cũng xác định bị cáo là người có vai trò chính trong việc tàng trữ trái phép chất ma túy của hai vợ chồng. Bị cáo D chỉ là người đi cùng bị cáo H, khi bị cáo H đưa ma túy cho bị cáo D thì bị cáo D cất giữ. Số tiền 5.200.000 đồng dùng để mua ma túy, các bị cáo khai 3.000.000 dồng là tiền bị cáo H có sẵn trong người và 2.200.000 đồng là tiền của bị cáo D đưa cho bị cáo H. Do vậy, đối với bị cáo H cần xử phạt mức hình phạt nặng hơn mới đủ tác dụng cải tạo, răn đe đối với bị cáo.

Bị cáo D không phải là người nghiện ma túy, phạm tội do bị chồng rủ rê, lôi kéo. Các bị cáo là vợ chồng, có hai con đều còn nhỏ (một con sinh năm 2010 và một con sinh năm 2011), rất cần sự quan tâm, chăm sóc, nuôi nấng của bố mẹ. Do vậy, xét cần thiết nên xử phạt bị cáo D mức án khoan hồng cũng đủ tác dụng răn đe, phòng ngừa, tạo điều kiện để bị cáo sớm về gia đình nuôi dạy con cái, đồng thời cũng thể hiện rõ chính sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng và Nhà nước đối với người phạm tội.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ cho thấy các bị cáo không có khả năng thi hành án. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác:

Vật chứng của vụ án là ma túy – vật cấm tàng trữ, lưu hành nên phải tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu màu xanh dương - đen xét có liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố : Các bị cáo Đỗ Hải H và Lê Thị D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng : điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt :

Đỗ Hải H 32 (ba mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 17/9/2020.

Lê Thị D 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/9/2020 đến ngày 25/9/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Áp dụng

- Điều 46, 47 Bộ luật hình sự.

- Các Điều 106, 136; 298; 331; 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau: 01 phong bì niêm phong có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn H, cán bộ Công an phường Nguyễn Văn C và bị can Lê Thị D, Đỗ Hải H.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh dương – đen.

(Tình trạng như Biên bản giao, nhận vật chứng số 102 ngày 21/01/2021 lập tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội).

Các bị cáo Đỗ Hải H, Lê Thị D mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2021/HS-ST ngày 27/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về