Bản án 28/2021/HS-ST ngày 20/05/2021 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY SƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 28/2021/HS-ST NGÀY 20/05/2021 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 5 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2021, đối với bị cáo:

1. Huỳnh Tấn L, sinh năm 1978 tại huyện T, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Thôn V, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Ngọc C (đã chết) và bà Phạm Thị N, sinh năm 1950; vợ: Đào Thị Hồng Á, sinh năm 1981; có 02 con: Lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2008; tiền án,tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Huỳnh Đình H (tên gọi khác: B), sinh năm 1988 tại huyện T, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1954 (đã chết) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1954; vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không;

- Tiền án: Có 01 tiền án. Ngày 11/12/2014, bị TAND huyện Tây Sơn xử phạt 7 năm tù về tội “Hiếp dâm trẻ em” quy định tại khoản 1 Điều 112 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (tại bản án số: 54/2014/HSST). Chấp hành xong bản án ngày 09/05/2019, chưa xóa án tích;

- Về nhân thân: Ngày 02/07/2007, Huỳnh Đình H bị Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định ra quyết định số: 2239/QĐ - UB đưa đi giáo dưỡng về hành vi “gây rối trật tự công cộng”, “Cố ý gây thương tích”. Ngày 30/07/2009 đã chấp hành xong thời hạn đưa vào cơ sở giáo dục;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

3. Huỳnh Đình H1 (tên gọi khác: N), sinh năm 1988 tại huyện Tây S, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1954 (đã chết) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1954; vợ: Trần Thị Như T, sinh năm 1989 (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2010; Tiền sự: Không;

- Tiền án: Có 01 tiền án: Ngày 04/12/2015 bị TAND Quận 12, TP.HCM xử phạt 5 năm 6 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm a khoản 1, 3 Điều 104 BLHS năm 1999, sử a đổi bổ sung năm 2009 (tại bản án số: 253/2015/HSST); bị cáo đã chấp hành án tù tại trại giam X, được giảm án 05 tháng, thời hạn tù còn lại chưa chấp hành là 2 năm 12 ngày. Ngày 6/8/2018 được Tòa án tỉnh Đ quyết định tha tù trước thời hạn, thời gian thử thách là 2 năm 12 ngày, chưa chấp hành xong bản án.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Anh Nguyễn Ngọc Đ, sinh năm 1974 (có mặt);

Địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện T, tỉnh Bình Định.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Phan Văn N, sinh năm 1974 (vắng mặt);

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định.

- Anh Phan Công L, sinh năm 1987 (vắng mặt);

Địa chỉ: Thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định.

- Chị Nguyễn Ngọc Quỳnh A, sinh năm 1988 (vắng mặt);

Địa chỉ: Thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định.

- Chị Trần Thị T, sinh năm 1975 (vắng mặt);

Địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện T, tỉnh Bình Định.

- Anh Nguyễn Thế P, sinh năm 1980 (vắng mặt);

Địa chỉ: Khối N, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định.

- Chị Phan Thị Bích V, sinh năm 1981 (vắng mặt);

Địa chỉ: Thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định.

* Người làm chứng:

- NLC1, sinh năm 1980 (có mặt);

Địa chỉ: Thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định.

- NLC2, sinh năm 1973 (vắng mặt);

Địa chỉ: Thôn C, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định.

- NLC3, sinh năm 1969 (vắng mặt);

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định.

- NLC4, sinh năm 1952 (vắng mặt);

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định.

- NLC5, sinh năm 1981 (vắng mặt);

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định.

- NLC6, sinh năm 1971 (vắng mặt);

Địa chỉ: 397 Q, phường B, thị xã A, tỉnh Bình Định.

- NLC7, sinh năm 1971 (vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai.

- NLC8, sinh năm 1960 (có mặt);

Địa chỉ: Thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định.

- NLC9, sinh năm 1984 (vắng mặt);

Địa chỉ: Thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 16 giờ ngày12/7/2020, Huỳnh Tấn L, Huỳnh Đình H và Hồ Văn M đi nhậu nhiều nơi. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, L và H về đến Miếu cây D (gần nhà H) tiếp tục nhậu cùng một số người trong xóm của H. Khoảng 10 phút sau, L điều khiển xe mô tô đi về trước, khi đến đoạn cầu Cầu C thuộc T, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định, gặp xe ôtô 77A - 07583 do anh Nguyễn Ngọc Đ điều khiển chở chị Nguyễn Thị Thu H2 và anh Phan Văn N đi ngược chiều đến. Do đã sử dụng chất kích thích (Rượu, bia) nên L điều khiển xe mô tô không chuẩn, lạng lách trước đầu xe ô tô của anh Đ. Anh Đ điều khiển xe né tránh và dừng lại, nói: Mầy muốn chết hay sao mà đi như vậy. L dừng xe lại, cách xe của Đ khoảng 15m, dùng tay ra hiệu bảo Đ xuống nói chuyện. Thấy vậy, N bước xuống xe cầm theo cái rựa đi lại vị trí chỗ L, hai bên cãi nhau. N dùng chân đạp vào người L 01 cái và quay lại xe. Đ tiếp tục chở H2 và N đi về hướng xã B, huyện T, tỉnh Bình Định.

Sau khi bị đánh, L điện thoại cho H kể lại sự việc. Lúc này, H vẫn đang nhậu với em ruột là Huỳnh Đình H1, chị Nguyễn Ngọc Quỳnh A, Phan Công L1 và M. H nói lại cho mọi người nghe và nói đến chỗ L xem thế nào. Cùng đến chỗ L, gồm: H, M mỗi người đi một xe, L1 chở H1 và Quỳnh A về nhà H1, H1 vào nhà lấy 01 cây giáo tự chế dài 134,5cm mang theo. Trên đường đi đến đoạn gần trường cấp 2 B, H gặp L đang đuổi theo xe ô tô của anh Đ, L nói: Đuổi theo xe con đó nên H điện thoại cho L1 nói đến ngã ba A. Sau đó cả nhóm chạy đuổi theo xe ô tô anh Đ. M không theo kịp nên bỏ đi về. Anh Đ biết có người cầm hung khí đuổi theo nên điều khiển xe dừng trước nhà N tại thôn A, xã B. Đ và N xuống xe chạy vào nhà N trốn, chị H2 vẫn ngồi bên trong xe ô tô và chốt khóa cửa. H, H1 và L đến, L gọi yêu cầu N và Đ ra nói chuyện nhưng không ai ra. Thấy H2 ngồi trong xe nên H và H1 đứng phía cửa trước bên phụ xe ô tô. L đứng phía cửa trước bên tài xe ô tô yêu cầu H2 xuống xe nói chuyện nhưng H2 không mở cửa. Thấy vậy nên L1 nói đồng bọn đừng đập xe và bỏ đi ra vị trí xe mô tô đứng cách sau xe ô tô khoảng 5 - 7m. H lấy 01 viên gạch ống bên hông nhà N đập vỡ kính chiếu hậu bên phụ. H1 thấy vậy cầm cây giáo đứng trước đầu xe chém 01 cái trúng vào nắp ca pô thì Quỳnh A nói đừng đập và ôm kéo H1 ra và đi ra chỗ L1. L lấy 01 viên gạch ống trước nhà N đập vào gương chiếu hậu bên tài và đập 2 cụm đèn stop phía sau đuôi xe ô tô. Sau khi đập xe, H và L vứt gạch tại hiện trường rồi cả nhóm đi về.

Ngày 26/8/2020, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Tây Sơn kết luận: Thiệt hại cụm đèn stop, đèn xe nhanh sau đuôi bên phải xe ô tô bị vỡ có giá trị là 2.709.000đ; cụm đèn stop, đèn xe nhanh sau đuôi bên trái xe ô tô bị vỡ có giá trị là 2.709.000đ; bộ gương chiếu hậu bên trái xe ô tô bị gãy, vỡ, hư hỏng hoàn toàn có giá trị là 1.977.000đ; nắp capo xe ô tô có vết móp lún, kích thước (43 x10)cm, trên vết móp lún bị tróc sơn, chi phí sửa chữa, khắc phục là 2.633.000đ; gương chiếu hậu bên phải xe ô tô bị vỡ bể phần kính, chi phí sửa chữa, thay mới là 670.000đ. Tổng cộng 10.698.000đ.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 viên gạch ống kích thước (18,5 x 11,5 x 8)cm, ở góc cạnh bị khuyết gạch; 01 cây giáo tự chế bằng kim loại dài 134,5cm, lưỡi bằng kim loại dài 28cm, mũi nhọn, bản nơi rộng nhất 4,5cm, một bên sắc gọn (bén), phần cán bằng kim loại, hình trụ tròn, đường kính 3cm; 01 điện thoại di dộng Itel màu đen, số Imei1: 354942076967426, số Imei2: 354942076967434 và 01 xe mô tô hiệu Atila màu đỏ, BSKS: 51H2 - 1894, số máy: VMEM9B462476, số khung: RLGH125ED4D462476, gương chiếu hậu bên phải bị hư hỏng, không kiểm tra bên trong.

- 01 gương chiếu hậu bên tài bị gãy, vỡ bể đã tháo rời; 01 cụm đèn stop, xi nhan phía sau bên tài của xe ô tô bị vỡ, bể ốp nhựa, đã tháo rời; 01 cụm đèn stop, xi nhanh phía sau bên phụ của xe ô tô bị nứt ốp nhựa, đã tháo rời. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Ngọc Đ.

Về phần dân sự: Các bị cáo đã bồi thường xong cho bị hại là anh Nguyễn Ngọc Đ số tiền là 10.698.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 12/CT-VKSTS ngày 03/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định đã truy tố các bị cáo Huỳnh Tấn L, Huỳnh Đình H, Huỳnh Đình H1 về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Các bị cáo khai hành vi phạm tội như trên.

- Người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn giữ quyền công tố tại phiên tòa, luận tội và tranh luận, giữ nguyên cáo trạng đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Huỳnh Đình H từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Huỳnh Đình H1 từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để tổng hợp hình phạt của Bản án này với 2 năm 12 ngày tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại Bản án số 253/2015/HSST ngày 04/12/2015 của Tòa án nhân dân Quận 12, TP.HCM mà bị cáo chưa chấp hành xong, buộc bị cáo Huỳnh Đình H1 phải chấp hành hình phạt chung.

- Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Huỳnh Tấn L từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng đến 24 tháng.

- Đối với Phan Văn N đã có hành vi đánh bị cáo L nhưng không gây thương tích, bị cáo L đã từ chối giám định và không có yêu cầu bồi thường. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với N.

- Đối với Phan Công L1 có hành vi chở bị cáo H1 đi nhưng với mục đích là đi xem L bị đánh như thế nào, khi đến nơi L1 có lời nói ngăn cản H1 không đập xe. Nguyễn Ngọc Quỳnh A có hành vi đi cùng H1 nhưng mục đích là để can ngăn H1. Việc các bị cáo đập xe là bộc phát. Khi nhóm bị cáo đập xe ô tô, Nguyễn Ngọc Quỳnh A đã can ngăn kéo H1 ra về nên hành vi của L1 và Quỳnh A không đồng phạm với các bị cáo trên về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản ” quy định tại Điều 178 BLHS.

2. Về trách nhiệm dân sự: Đã bồi thường xong, đề nghị miễn xét.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- Đề nghị tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) viên gạch ống kích thước (18,5 x 11,5 x 8)cm, ở góc cạnh bị khuyết gạch; 01 (một) cây giáo tự chế bằng kim loại dài 134,5cm, lưỡi bằng kim loại dài 28cm, mũi nhọn, bản nơi rộng nhất 4,5cm, một bên sắc gọn (bén), phần cán bằng kim loại, hình trụ tròn, đường kính 3cm (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/3/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Sơn).

- Đề nghị trả lại cho bị cáo Huỳnh Tấn L: 01 điện thoại di dộng Itel màu đen, số Imei1: 354942076967426, số Imei2: 354942076967434; đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong; 01 (một) xe mô tô hiệu Atila màu đỏ, BKS: 51H2 - 1894, số máy: VMEM9B462476, số khung: RLGH125ED4D462476, gương chiếu hậu bên phải bị hư hỏng, không kiểm tra chất lượng bên trong (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/3/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Sơn).

Bị cáo, bị hại không có ý kiến tranh luận về quan điểm luận tội cũng như đề nghị giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt với mức thấp nhất để bị cáo có điều kiện làm ăn và tự cải tạo thành người tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tây Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Lời khai của các bị cáo Huỳnh Tấn L, Huỳnh Đình H, Huỳnh Đình H1 trước tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định vụ án như sau: Khoảng 23 giờ ngày 12/7/2020, tại thôn A, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định, các bị cáo Huỳnh Đình H, Huỳnh Đình H1 và Huỳnh Tấn L không bàn bạc trước nhưng cùng có hành vi dùng gạch, cây giáo tự chế đập xe ô tô 77A - 07583 của anh Nguyễn Ngọc Đ gây hư hỏng, trị giá thiệt hại là 10.698.000đ. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội đến cùng với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi nêu trên của các bị cáo H, H1 và L đã phạm vào tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017: “1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:....”

[3.1] Đối với bị cáo H1 : Tại Bản án số 253/2015/HSST ngày 04/12/2015 của Tòa án nhân dân Quận 12, TP.HCM xử phạt 5 năm 6 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Bị cáo đã chấp hành hình phạt tù tại trại giam X và được giảm án 05 tháng, thời hạn tù còn lại chưa chấp hành là 2 năm 12 ngày. Ngày 6/8/2018 được Tòa án tỉnh Đ quyết định tha tù trước thời hạn, thời gian thử thách là 2 năm 12 ngày. Trong thời gian thử thách bị cáo phạm tội mới. Do vậy, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để tổng hợp hình phạt của Bản án này với 2 năm 12 ngày tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại Bản án số 253/2015/HSST ngày 04/12/2015 của Tòa án nhân dân Quận 12, TP.HCM mà bị cáo chưa chấp hành xong, buộc bị cáo H1phải chấp hành hình phạt chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[4.1] Bị cáo H có 01 tiền án: ngày 11/12/2014, bị TAND huyện Tây Sơn xử phạt 7 năm tù về tội “Hiếp dâm trẻ em” quy định tại khoản 1 Điều 112 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (tại bản án số: 54/2014/HSST), chấp hành xong bản án ngày 09/05/2019, chưa xóa án tích. Do đó, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

[4.2] Bị cáo H1 có 01 tiền án: Tại Bản án số 253/2015/HSST ngày 04/12/2015 của Tòa án nhân dân Quận 12, TP.HCM xử phạt 5 năm 6 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Bị cáo đã chấp hành hình phạt tù tại trại giam X và được giảm án 05 tháng, thời hạn tù còn lại chưa chấp hành là 2 năm 12 ngày. Ngày 6/8/2018 được Tòa án tỉnh Đ quyết định tha tù trước thời hạn, thời gian thử thách là 02 năm 12 ngày. Trong thời gian thử thách bị cáo phạm tội mới. Do đó, bị cáo H1 phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

[4.3] Bị cáo L không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự [5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo H, H1, L đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, đã bồi thường xong cho bị hại, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, do đó các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Riêng đối với bị cáo L phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS.

[6] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Sau khi bị đánh, bị cáo L có hành vi gọi điện thoại cho bị cáo H đến, mục đích để giúp sức nếu có đánh nhau. Nghe vậy, H nói cho cả nhóm biết việc L bị chặn đánh nên H, H1, Quỳnh A, L và M cùng đi đến chỗ bị cáo L. Với bản chất coi thường pháp luật nên bị cáo H chuẩn bị 01 cây giáo cầm theo mục đích có đánh nhau thì đánh lại. Khi phát hiện bị nhóm bị cáo L đuổi theo nên anh Đ và N đã chạy trốn. Do bực tức việc các anh Đ và N không ra nói chuyện vì sao đánh L nên bị cáo H là người đập xe đầu tiên, sau đó là bị cáo H1. Bị cáo L là người đập xe sau cùng. Việc đập xe là do bộc phát các bị cáo, không có sự bàn bạc trước. Vụ án đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn, các bị cáo đều đồng phạm nhau với vai trò là người thực hành. Bị cáo H và bị cáo H1 phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS nên cần thiết phải có thời gian cải tạo cách ly hai bị cáo này ra khỏi đời sống xã hội một thời gian. Đối với bị cáo L có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú rõ ràng; để tạo điều kiện bị cáo tự cải tạo, có điều kiện làm ăn sinh sống và xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, vì vậy áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cho bị cáo được hưởng án treo như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa cũng đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[7] Về trách nhiệm dân sự và bồi thường thiệt hại: Các bị cáo đã bồi thường cho bị hại xong nên miễn xét.

[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

[8.1] 01 (một) viên gạch ống kích thước (18,5 x 11,5 x 8)cm, ở góc cạnh bị khuyết gạch; 01 (một) cây giáo tự chế bằng kim loại dài 134,5cm, lưỡi bằng kim loại dài 28cm, mũi nhọn, bản nơi rộng nhất 4,5cm, một bên sắc gọn (bén), phần cán bằng kim loại, hình trụ tròn, đường kính 3cm (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/3/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Sơn) là hung khí mà các bị cáo sử dụng gây án nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[8.2] 01 điện thoại di dộng Itel màu đen, số Imei1: 354942076967426, số Imei2: 354942076967434 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong;

01 (một) xe mô tô hiệu Atila màu đỏ, BSKS: 51H2 - 1894, số máy: VMEM9B462476, số khung: RLGH125ED4D462476, gương chiếu hậu bên phải bị hư hỏng, không kiểm tra chất lượng bên trong (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/3/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Sơn) là tài sản của bị cáo L, không phải là vật, phương tiện hổ trợ hành vi phạm tội nên cần tuyên trả lại cho bị cáo L sử dụng.

[9] Đối với Phan Văn N đã có hành vi đánh bị cáo L nhưng không gây thương tích gì, bị cáo L đã từ chối giám định và không có yêu cầu bồi thường. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với N (BL: 335 - 337) [10] Đối với Phan Công L1 có hành vi chở bị cáo H1 đi nhưng với mục đích là đi xem bị cáo L bị đánh như thế nào, khi đến nơi L1 có lời nói ngăn cản H1 không đập xe. Còn Nguyễn Ngọc Quỳnh A có hành vi đi cùng bị cáo H1 nhưng mục đích là để can ngăn bị cáo H1. Việc các bị cáo đập xe là bộc phát, khi nhóm bị cáo đập xe ô tô thì Quỳnh A đã can ngăn kéo H1 ra về nên hành vi của L1 và Quỳnh A không đồng phạm với các bị cáo trên về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản ” quy định tại Điều 178 BLHS.

[11] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội: Cần buộc các bị cáo H, H1và L mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Đình H, Huỳnh Đình H1, Huỳnh Tấn L phạm tội cố ý làm hư hỏng tài sản”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Huỳnh Đình H 09 (chín) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo Huỳnh Đình H tính từ ngày bắt đi thi hành án.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Huỳnh Đình H1 09 (chín) tháng tù.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Tổng hợp hình phạt 09 (Chín) tháng tù của Bản án này với 02 (Hai) năm 12 (Mười hai) ngày tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại Bản án số 253/2015/HSST ngày 04/12/2015 của Tòa án nhân dân Quận 12, TP.HCM mà bị cáo chưa chấp hành xong, buộc bị cáo Huỳnh Đình H1 phải chấp hành hình phạt chung là 02 (Hai) năm 09 (Chín) tháng 12 (Mười hai) ngày tù.

Thời hạn tù của bị cáo Huỳnh Đình H1 tính từ ngày bắt đi thi hành án.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Huỳnh Tấn L 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 20/5/2021.

Giao bị cáo Huỳnh Tấn L cho UBND xã B, huyện T, tỉnh Bình Định quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Huỳnh Tấn L thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

4. Về trách nhiệm dân sự: Miễn xét.

5. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) viên gạch ống kích thước (18,5 x 11,5 x 8)cm, ở góc cạnh bị khuyết gạch; 01 (một) cây giáo tự chế bằng kim loại dài 134,5cm, lưỡi bằng kim loại dài 28cm, mũi nhọn, bản nơi rộng nhất 4,5cm, một bên sắc gọn (bén), phần cán bằng kim loại, hình trụ tròn, đường kính 3cm (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/3/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Sơn) - Trả lại bị cáo Huỳnh Tấn L: 01 điện thoại di dộng Itel màu đen, số Imei1: 354942076967426, số Imei2: 354942076967434; đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong; 01 (một) xe mô tô hiệu Atila màu đỏ, BKS: 51H2 - 1894, số máy: VMEM9B462476, số khung: RLGH125ED4D462476, gương chiếu hậu bên phải bị hư hỏng, không kiểm tra chất lượng bên trong (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/3/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Sơn) 6. Về án phí: Các bị cáo Huỳnh Tấn L, Huỳnh Đình H, Huỳnh Đình H1 mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng).

7. Quyền kháng cáo: Các bị cáo và đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2021/HS-ST ngày 20/05/2021 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

Số hiệu:28/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Sơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về