Bản án 28/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 28/2021/HS-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 455/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2021QĐXXST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Việt Đ; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 02 tháng 4 năm 1987; tại Đắk Lắk;

Nơi đăng ký HKTT: Số 372 Phan Bội Châu, phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột; Nơi cư trú: Không nơi ở nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc:

Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không Con ông Phạm Đức Trọng, Con bà Lê Thị Thanh Hảo, có vợ là Phạm Thị Hiền, (Đã ly hôn, không rõ địa chỉ) có 03 con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2011;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 31/3/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tuyên phạt 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (tại bản án số 32/2016/HSST), ngày 02/2/2018 chấp hành xong, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 29/10/2020 đến nay– Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Như N Địa chỉ: Số 06 đường P , phường T, thành phố B, tỉnh Đ- Vắng mặt

- Bà Nguyễn Thị Kim H Địa chỉ: Số 02/5/18/15 đường V, phường K, thành phố B, tỉnh Đ- Vắng mặt

Người chứng kiến:

- Ông Trương Quang S Địa chỉ: Tổ dân phố 8, phường T, thành phố B, tỉnh Đ- Vắng mặt

- Ông Huỳnh L Địa chỉ: Tổ dân phố 8, phường T, thành phố B, tỉnh Đ- Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Việt Đ là đối tượng nghiện ma túy đá (Methamphetamine). Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 29/10/2020, Đ một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47AB – xxxxx đến khu vực hẻm 123 đường T thành phố B để mua ma túy về sử dụng thì gặp T đi cùng một nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch). Tại đây, Đ mua của T 250.000 đồng ma túy đá thì được T đưa cho 01 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. Mua được ma túy, Đ cất giấu trong người và điều khiển xe đi về. Khi đến khu vực trước số nhà 04 P , thành phố B thì bị lực lượng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trong túi quần mà Đ đang mặc 01 (một) gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng đã được niêm phong theo quy định pháp luật Tại bản Kết luận giám định số 989/GĐMT- PC09 ngày 05/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1890 gam, loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 28 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Phạm Việt Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Phạm Việt Đ khai nhận hành vi phạm tội đúng như lời khai tại Cơ quan điều tra và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã truy tố là đúng, bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Việt Đ từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Các biện pháp tư pháp:

Đối với 0,1620 gam ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 989/GĐMT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy;

Đối với xe mô tô hiệu SCOOPY, màu đỏ đen BKS 47AB-xxxxx mà bị cáo sử dụng để mua ma túy. Quá trình điều tra đã xác định đây là tài sản của chị Nguyễn Như N (Sinh năm: 2002; HKTT: 06 P , phường T, thành phố B). Quá trình sử dụng chị N giao xe cho chị Nguyễn Thị Kim H (Sinh năm: 1993; HKTT: 215/18/15 Võ Văn K, phường K, thành phố B) quản lý. Ngày 29/10/2020, chị H cho Đ mượn xe nhưng không biết việc Đ sử dụng xe để đi mua ma túy, không liên quan đến hành vi phạm tội. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản cho chị N quản lý, sử dụng là phù hợp Hành vi khác:

Đối với nguồn ma túy, bị cáo khai nhận mua của một người tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực đường T, thành phố B và nam thanh niên đi cùng T. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột chưa xác minh được nhân thân, lai lịch của các đối tượng. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra tách hành vi của các đối tượng ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ xử lý sau.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Đ. Cơ quan Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp Bị cáo không bào chữa và tham gia tranh luận gì thêm. Chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, lời khai của bị cáo và quan điểm của Đ diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không xuất trình thêm chứng cứ tài liệu gì, bị cáo cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, bản kết luận giám định, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ và nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm Sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 29/10/2020, trước số nhà 04 P , phường T, thành phố B. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện, bắt quả tang Phạm Việt Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi quần mà Đ đang mặc 01 (một) gói nylon bên trong chứa chất ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,1890 gam. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. “Người nào tàng trừ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…… c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.”

[3]. Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi và nhận thức được rằng ma túy là chất gây nghiện làm hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội, tội phạm khác và gây ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội, mọi hành tàng trữ trái phép chất ma túy đều bị pháp luật nghiêm trị. Song xuất phát từ ý thức coi thường pháp luật, thỏa mãn cơn nghiện nên bị cáo đã có hành vi tàng trữ 0,1890 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Bị cáo là người có nhân thân xấu ngày 31/3/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố B tuyên phạt 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” sau khi chấp hành xong bản án không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần thiết phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định thì mới đảm bảo phát huy tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có cha đẻ là Phạm Đức T được nhà nước tặng huân chương chiến sĩ hạng ba trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xét mức hình phạt và các biện pháp tư pháp mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp nên cần chấp nhận

[5]. Biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Đối với 0,1620 gam ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 989/GĐMT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

Đối với xe mô tô hiệu SCOOPY, màu đỏ đen BKS 47AB-xxxxx mà bị cáo sử dụng để mua ma túy. Quá trình điều tra đã xác định đây là tài sản của chị Nguyễn Như N (Sinh năm: 2002; HKTT: 06 P, phường T, thành phố B). Quá trình sử dụng chị N giao xe cho chị Nguyễn Thị Kim H quản lý. Ngày 29/10/2020, chị H cho bị cáo Đ mượn xe nhưng không biết việc Đ sử dụng xe để đi mua ma túy, không liên quan đến hành vi phạm tội. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản cho chị Ngọc quản lý, sử dụng là phù hợp.

[6]. Hành vi khác:

Đối với nguồn ma túy, bị cáo khai nhận mua của một người tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực đường T, thành phố B và nam thanh niên đi cùng T . Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột chưa xác minh được nhân thân, lai lịch của các đối tượng. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra tách hành vi của các đối tượng ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ xử lý sau.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Đ. Cơ quan Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp.

[7].Về án phí: Bị cáo Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

1.Tuyên bố bị cáo Phạm Việt Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Việt Đ 01 năm 06 tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/10/2020.

2. Biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu huỷ 0,1620 gam ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 989/GĐMT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk (Đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/12/2020 giữa Công an Tp. Buôn Ma Thuột với Chi cục Thi hành án dân sự Tp.Buôn Ma Thuột. Hiện vật chứng đang được lữu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự Tp.Buôn Ma Thuột)

3.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Việt Đ phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về