TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 28/2021/HSST NGÀY 12/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2020/HSST, ngày 07 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2020/QĐXXST –HS, ngày 29 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:
Vàng Thị D - Tên gọi khác: không; Sinh năm:1975; sinh tại: xã T, huyện M, tỉnh Lai Châu. Nơi thường trú: bản C, xã Tà T, huyện M, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: trồng trọt; Đoàn, Đảng: không; Trình độ học vấn: không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Vàng Dũng D (Vàng Giống D) – đã chết; Con bà: Sùng Thị S – đã chết; Bị cáo có chồng: Giàng A Ch – sinh năm: 1974, Bị cáo có 11 con, con lớn nhất, sinh năm 1993, con nhỏ nhất sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/08/2020 đến ngày 02/9/2020 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú - Có mặt tại phiên tòa.
Người phiên dịch cho bị cáo: Sùng A Chính; Trú tại: Khu phố 8, Thị trấn Mường Tè, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu - Có mặt
* Người bào chữa cho bị cáo là Ông Trần Văn Hùng – Luật sư, cộng tác viên trợ giúp viên pháp lý của Trung Tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước, tỉnh Lai Châu – Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào ngày 20/8/2020 trên đường đi bộ về lán trại, Vàng Thị D gặp một người đàn ông dân tộc Mông tại khu vực bản U Ma, xã Tà Tổng, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Qua trao đổi, Vàng Thị D đã mua được của người đàn ông này 01 gói thuốc phiện với số tiền 800.000đồng. Mua được thuốc phiện, D đem gói thuốc phiện về lán trại, về đến lán, D để gói thuốc phiện vào trong chiếc túi vải cất giấu tại nơi ngủ của D không cho ai biết. Đến ngày 22/8/2020, D lấy gói thuốc phiện cất giấu vào trong túi áo D đang mặc rồi cùng chồng là Giàng A Ch đi về nhà, về đến nhà, D giấu gói thuốc phiện trên giường ngủ của D, không cho ai biết. Khoảng 23 giờ 50 phút ngày 23/8/2020 tổ công tác công an xã Tà tổng đang làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại khu vực bản C, xã T thì nhận được tin báo tại nhà của Vàng Thị D có người lạ mặt đến, nghi là có hoạt động tuyên truyền đạo trái pháp luật, tổ công tác triển khai lực lượng đến nhà của Vàng Thị D kiểm tra, khi tổ công tác đến gõ cửa thì Vàng Thị D cầm theo gói thuốc phiện chui qua chỗ vách thủng đi ra ngoài nấp vào bụi rậm cách nhà của D khoảng 05m, nhưng bị tổ công tác phát hiện, lúc này Vàng Thị D ném từ tay trái một chiếc túi vải cách chỗ D nấp khoảng 03m, tổ công tác yêu cầu D nhặt túi vải lên để kiểm tra, qua kiểm tra phát hiện trong túi vải có 01 gói chất nhựa dẻo, màu nâu đen, có mùi hắc bọc trong một mảnh nilon màu trắng, theo lời khai của D đây là thuốc phiện của D, D mua về để sử dụng. Qua khám xét nơi ở của D, đã thu giữ thêm 01 bộ bàn đèn tự tạo.
Qua xác định khối lượng và giám định chất ma túy, đã xác định 01 gói chất nhựa dẻo, màu nâu đen, có mùi hắc thu giữ của Vàng Thị D có khối lượng là 12, 99 gam, tại bản Kết luận giám định số: 459/GĐ–KTHS, ngày 24/8/2020 của h ng k thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận, các mẫu chất dẻo, màu nâu đen, có mùi hắc thu giữ của Vàng Thị D là ma túy, thuốc phiện.
Tại Cáo trạng số: 01/CT- VKS– MT, ngày 05 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè đã truy tố bị cáo Vàng Thị D về tội " Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm b khoản 1 Điều 249 BLHS.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vàng Thị D phạm tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy ”.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 38, Điều 50; điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Xử phạt bị cáo Vàng Thị D từ 01 năm tù đến 01 năm 04 tháng tù. Về hình phạt bổ sung đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo có điều kiện kinh tế khó khăn.
Về vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a,c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy gồm: 11,06 gam thuốc phiện còn lại sau giám định ; 01 mảnh ni lon màu trắng và 01 bộ bàn đèn.
Về án phí miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo, vì bị cáo là người dân tộc thiểu số, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày luận cứ bào chữa. Sau khi phân tích về nguyên nhân, mục đích, hành vi phạm tội, mức độ nguy hiểm cho xã hội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Người bào chữa nhất trí luận tội của Kiểm sát viên tuyên bố bị cáo Vàng Thị Dà phạm tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm b khoản 1 Đều 249 BLHS. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo cụ thể là: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số, không có trình độ học vấn, nhận thức về pháp luật có phần còn hạn chế, bị cáo có bố là người có công với cách mạng được tặng huân chương kháng chiến chống M cứu nước quy định điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình; miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo vì bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiên kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Tại phiên tòa bị cáo Vàng Thị D khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, lời khai của bị cáo là thống nhất, phù hợp với các lời khai tại cơ quan Điều tra, bị cáo nhất trí với ý kiến bào chữa của người bào chữa, không có ý kiến bổ sung thêm; bị cáo nhất trí luận tội và đề nghị của kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận, không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu và Điều tra viên, Kiểm sát viên được phân công điều tra, truy tố, trong quá trình thực hiện đã tuân thủ đúng theo quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[ 2 ] Về hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Do muốn có thuốc phiện để sử dụng, vào ngày 20/8/2020, trên đường đi vào lán trại, Vàng Thị D đã mua được của một người đàn ông lạ mặt một gói thuốc phiện với số tiền là 800.000đồng. Mua được thuốc phiện, D cất giấu không cho ai biết. Đến khoảng 23 giờ 50 phút ngày 23/8/2020 nhận được tin báo nhà của Vàng Thị D có người lạ, Tổ công tác công an xã Tà Tổng đang làm nhiệm vụ tại bản Cô ô Hồ đến kiểm tra, do sợ bị phát hiện, nên D đã cầm gói thuốc phiện được giấu trong túi vải chui qua vách thủng ra ngoài, nhưng bị tổ công tác công an xã Tà Tổng phát hiện, thu giữ của D 01 gói thuốc phiện có khối lượng 12,99gam.
Như vậy khẳng định, hành vi của Vàng Thị D đã đủ yếu tố cấu thành tội" Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, khoản 1 Điều 249 BLHS có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Do vậy, Cáo trạng số 01/CT - VKS - MT, ngày 05 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè truy tố đối với Vàng Thị D về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy”' theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[ 3 ] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ thuốc phiện để sử dụng là vi phạm pháp luật, nhưng do nghiện chất ma túy, nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm vào chính sách độc quyền về quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế bản thân, gia đình bị cáo.
[ 4 ] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân, bị cáo Vàng Thị D có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo là người nghiện chất ma túy, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo Vàng Thị D luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người dân tộc thiểu số, không có trình độ học vấn, sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, bố bị cáo là người có công với cách mạng được tặng Huy chương kháng chiến chống M cứu nước hạng nhì, đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS cần được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[ 5 ] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và tại phiên tòa, xét thấy, bị cáo Vàng Thị D nghề nghiệp trồng trọt, nghiện chất ma túy, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có điều kiện thi hành, Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Trong vụ án này, theo lời khai của Vàng Thị D, số thuốc phiện D có được là do D mua của một người đàn ông dân tộc Mông tại khu vực bản U Ma, xã Tà Tổng, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, nhưng D không biết rõ lai lịch của người này nên không có cơ sở để điều tra xử lý được đối với người này.
[ 6 ] Về vật chứng hiện đang thu giữ: Đối với 11,06 gam thuốc phiện thu giữ còn lại sau giám định; 01 mảnh ni lon màu trắng còn lại sau khi cân xác định chất ma túy được niêm phong trong phong bì công văn Công an huyện Mường Tè và 01 bộ bàn đèn tự tạo, đây là chất cấm lưu hành và công cụ dùng vào việc phạm tội cần phải tịch thu tiêu hủy.
[ 7 ] Về án phí hình sự sơ thẩm: Xét thấy bị cáo Vàng Thị D là người dân tộc thiểu số, sống ở xã có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV, miễn án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng cho bị cáo Vàng Thị D Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên và ý kiến của người bào chữa là có căn cứ, Hội đồng xét xử cần phải chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV quy định về án phí, lệ phí.
1. Tuyên bố bị cáo Vàng Thị D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Xử phạt bị cáo Vàng Thị D 01 ( một) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo tự nguyện đi chấp hành hoặc bị bắt đi thi hành, được khấu trừ thời gian tạm giữ là 09 ngày, kể từ 10 giờ 00 phút ngày 24/08/2020 đến 10 giờ 00 phút ngày 02/9/2020.
2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 11,06gam thuốc phiện thu giữ còn lại sau giám định; 01 mảnh ni lon màu trắng còn lại sau khi cân xác định khối lượng chất ma túy và 01 bộ bàn đèn tự tạo.
Toàn bộ vật chứng trên hiện đang được thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường tè, tỉnh Lai Châu, theo biên bản giao nhận vật chứng số 26, ngày 14/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu.
3. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm 200.000đồng cho bị cáo Vàng Thị D.
Án xử công khai, có mặt bị cáo, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày từ ngày tuyên án lên Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án 28/2021/HSST ngày 12/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 28/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về