Bản án 28/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 28/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 28 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 47/2021/TLST- HNGĐ, ngày 15 tháng 3 năm 2021 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 228/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Minh C; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn P, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng; hiện trú tại: Thôn T, xã M, huyện A, thành phố Hải Phòng, có mặt.

- Bị đơn: Anh Hoàng Văn D; trú tại: Thôn P, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 18 tháng 01 năm 2021 và bản tự khai cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Đỗ Thị Minh C trình bày:

Chị Đỗ Thị Minh C và anh Hoàng Văn D tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng vào ngày 16 tháng 10 năm 2015. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận thời gian ngắn, sau đó phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung. Anh D chơi bời cờ bạc dẫn đến nợ nần nhiều, không quan tâm gì đến vợ con, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, lúc nào cũng căng thẳng. Chị C có khuyên giải nhiều lần nhưng anh D không thay đổi. chị C bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống ly thân với anh D từ tháng 3 năm 2020 đến nay, vợ chồng không quan tâm đến nhau. Nay chị C thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ được nên chị C đề nghị toà án giải quyết ly hôn với anh D. Về con chung vợ chồng có 01 con chung là cháu Hoàng Ngọc Bảo T, sinh ngày 16 tháng 11 năm 2015. Chị C đề nghị được nuôi con và không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung vợ chồng: Chị C không yêu cầu tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Hoàng Văn D có bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay trình bày thống nhất với chị Đỗ Thị Minh C về thời gian và điều kiện kết hôn. Quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do vợ chồng không có tiếng nói chung, không có sự chia sẻ với nhau thường hay xảy ra cãi nhau. Chị C đã tự ý bỏ về gia đình bố mẹ đẻ sinh sống từ tháng 3 năm 2020, vợ chồng ly thân nhau từ đó và không quan tâm đến nhau. Mẫu thuẫn của anh chị đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không có kết quả. Nay chị C có đơn xin ly hôn, anh đồng ý thuận tình ly hôn với chị C. Về con chung: Anh D thống nhất với chị C về việc vợ chồng có 01 con chung là Hoàng Ngọc Bảo T, sinh ngày 16 tháng 11 năm 2015. Anh D đề nghị được nuôi con và không yêu cầu chị C cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã đảm bảo đúng quy định pháp luật tố tụng. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 19, 51, 53, 55, 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, Xử: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị C và anh D; về con chung: Giao con Hoàng Ngọc Bảo T, sinh ngày 16 tháng 11 năm 2015 cho chị C nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật, tạm hoãn việc anh D cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Chị C và anh D không yêu cầu tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc chị C phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Đỗ Thị Minh C có đơn xin ly hôn anh Hoàng Văn D, hiện anh Hoàng Văn D cư trú tại: Thôn P, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị Minh C và anh Hoàng Văn D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng vào ngày 16 tháng 10 năm 2015 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, anh D không quan tâm vợ, con nên vợ chồng thường xảy ra cãi nhau, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Gia đình hai bên hòa giải nhiều lần nhưng mâu thuẫn vợ chồng không thay đổi. Chị C bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống ly thân với anh D từ tháng 3 năm 2020 đến nay, vợ chồng không quan tâm đến nhau. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị C và anh D đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị C và anh D tại phiên tòa hôm nay đều thuận tình ly hôn. Việc thuận tình ly hôn của chị C và anh D là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, phù hợp với quy định tại Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình nên chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị C và anh D có 01 con chung Hoàng Ngọc Bảo T, sinh ngày 16 tháng 11 năm 2015. Chị C và anh D đều có nguyện vọng được nuôi con. Căn cứ vào các tài liệu xác minh chị C và anh D hiện nay đều có việc làm ổn định, có thu nhập và có nơi ở ổn định. Tuy nhiên, cháu Hoàng Ngọc Bảo T hiện chị C đang nuôi dưỡng trực tiếp và cháu là con gái cần sự chăm sóc của mẹ. Căn cứ vào các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao con Hoàng Ngọc Bảo T cho chị C nuôi dưỡng là phù hợp, tạm hoãn việc anh D cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung: Chị C và anh D đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị C phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 53, Điều 55, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Đỗ Thị Minh C và anh Hoàng Văn D.

2. Về con chung: Giao con Hoàng Ngọc Bảo T, sinh ngày 16 tháng 11 năm 2015 cho chị Đỗ Thị Minh C nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn việc anh Hoàng Văn D cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Đỗ Thị Minh C phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Đỗ Thị Minh C đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0011706 ngày 15 tháng 3 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Chị Đỗ Thị Minh C đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Chị Đỗ Thị Minh C và anh Hoàng Văn D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

Số hiệu:28/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về