TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN ĐỊNH, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 28/2020/HS-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong ngày 31 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở TAND huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: TVN, sinh ngày: 29/6/1987, tại xã L, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.
Nơi cư trú: Thôn C, xã L, huyện Y, Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Cao Lan; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông TVL, sinh năm 1949, Con bà NTC, sinh năm 1951; Gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ 6; bị cáo có vợ NTM, sinh năm 1993, có 02 con sinh năm 2014 và 2016.
Tiền án, tiền sự: Không Về nhân thân: Ngày 15/4/2006, bị Công an huyện Y, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/01/2020, đến ngày 10/01/2020 thì chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Thanh Hóa.
- Bị hại: Anh TVC, sinh năm 1996, anh LVQ, sinh năm 1995, anh LVN, sinh năm 1993.
Đều trú tại: Thôn 10, xã G, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
- Những người làm chứng:
1. Anh T, sinh năm 1985; anh NVT, sinh năm 1993; chị NVH, sinh năm 1986;
anh PVT, sinh năm 1981;
Đều trú tại: Thôn 2, xã G, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
2. Anh LVH, sinh năm 1995, anh TVH, sinh năm 2001; anh P, sinh năm 2001;
chị T, sinh năm 1999; anh Đ, sinh năm 2002; anh C, sinh năm 1996; chị N, sinh năm 1970, anh D, sinh năm 1993, chị NTM, sinh năm 1993.
Đều trú tại: Thôn 10, xã G, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
3. Anh TNH, sinh năm 1995.
Địa chỉ: Thôn Y, xã T, huyện Yên Định, Thanh Hóa.
Tại phiên tòa có mặt bị cáo, người bị hại anh TVC và anh LVQ, vắng mặt anh LVN và những người làm chứng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 30/12/2019 do có mâu thuẫn nên LVQ và T có xảy ra xô xát, LVH đi cùng thấy LVQ bị đánh nên đã dùng gậy sắt đánh T bị thương ở khủy tay trái và đuôi lông mày trái, được mọi người can ngăn nên LVQ, LVH và T không tiếp tục đánh nhau nữa. Sau đó T được bị cáo TVN đưa đi sơ cứu vết thương tại Trạm y tế xã G. Sơ cứu xong, T và TVN ra về thì gặp LVH, LVQ, LVN, TĐN, TVC, TVH, TNP, TĐĐ, NVC (đều là bạn của LVQ ở xã G) và LVN (Anh trai của LVQ) đang đi xe máy ngược chiều. Nhóm đối tượng này khi nhìn thấy T và TVN đã quay xe lại đi theo sau xe T và TVN. Thấy vậy, T bảo TVN dừng xe lại để nói chuyện thì LVH, LVQ, LVN dừng xe. LVN chủ động nói chuyện để giải hòa mâu thuẫn giữa T và em trai mình. Lúc này bị cáo TVN ở ngoài hỏi “Thằng nào đánh anh tao chảy máu?”, thì LVH trả lời: “Là tao” và lao vào đánh TVN thì được LVQ can ngăn. TVN nói “Mày thích đánh nhau lắm à mà cứ LVH LVH hổ hổ lao vào đánh hai anh em tao”, rồi TVN quay lại cốp xe lấy ra một con dao dạng dao gọt hoa quả, bỏ vào túi quần bên phải rồi quay trở lại chỗ T. Giữa TVN và LVH cãi nhau, TVN thách thức: “Chấp mười thằng bay nhảy vô đây”, thì bị LVH dùng gậy gỗ đập 01 cái vào đầu TVN, TVN rút dao trong túi quần ra đâm về phía LVH một nhát nhưng không trúng. Tiếp đó LVQ xông vào dùng tay đấm TVN 01 cái vào mặt nhưng không trúng, liền bị TVN dùng dao đâm 01 nhát trúng phía ngực trái LVQ.
TVC đứng cạnh đó cũng xông vào dùng tay đấm TVN 2-3 cái vào ngực và bụng làm TVN bị chới với và ngã ngồi xuống. TVN liền đứng dậy dùng dao đâm về phía TVC 2 nhát trúng vào vùng thượng vị và vùng cổ bên phải. LVN cũng đứng gần đó xông lại, dùng gậy bóng chày bằng kim loại đập TVN một cái sượt qua vai thì bị TVN dùng dao đâm 2 nhát trúng cẳng tay trái và hông bên trái của LVN. Sau đó, TVN bỏ chạy vào ruộng mía nên LVH không đuổi theo nữa. TVC, LVQ, LVN bị thương được mọi người đưa đi cấp cứu.
Đến ngày 01/01/2020 nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên bị cáo TVN đã đến cơ quan công an huyện Yên Định đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi mà mình đã thực hiện.
Theo Bản kết luận giám định Pháp y số 04, 05, 06/2020/TTPY ngày 07/01/2020 của Trung T Pháp y tỉnh Thanh Hóa thể hiện: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do bị cáo TVN gây ra đối với LVN là 3%, đối với LVQ là 1%, đối với TVC là 34%.
Tại cơ quan điều tra, TVN đã thành khẩn khai nhận hành vi gây thương tích cho LVN, LVQ và TVC như đã nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người bị hại, người làm chứng, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
Tại bản cáo trạng số 25 ngày 09/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định đã truy tố bị cáo TVN về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134, Điều 38, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội để xử phạt bị cáo TVN từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 01/01/2020.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị buộc bị cáo phải bồi thường tổn hại về sức khỏe cho những người bị hại gồm: Bồi thường cho anh TVC 63.241.000đ, được trừ đi số tiền 15.000.000đ đã bồi thường, số tiền còn lại bị cáo tiếp tục bồi thường cho anh TVC; Bồi thường cho anh LVQ 3.257.000đ, được trừ đi 2.000.000đ đã được bị cáo bồi thường, số tiền còn lại bị cáo tiếp tục bồi thường cho anh LVQ.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau: 01 gậy sắt màu trắng, 01 gậy sắt màu đỏ đen và 01 gậy gỗ màu vàng cam không còn giá trị sử dụng, hiên đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Định.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo TVN khai nhận toàn bộ hành vi mà mình đã thực hiện như cáo trạng đã truy tố và xin giảm nhẹ hình phạt; các bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan điều tra Công an huyện Yên Định, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo TVN thừa nhận: Vào tối ngày 30/12/2019 bị cáo đã có hành vi dùng dao nhọn, loại dao gọt hoa quả gây thương tích cho các anh LVN, LVQ và TVC, làm tổn hại sức khỏe đối với anh LVN 03%, anh LVQ 01% và anh TVC 34%. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị hại, của những người làm chứng, kết luận giám định, cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo TVN phạm tội Cố ý gây thương tích, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015.
Trong vụ án này còn có LVH đã có hành vi dùng gậy sắt đánh T, làm T bị thương, LVH còn dùng gậy gỗ đánh bị cáo TVN vào đầu. Nhưng do anh T và bị cáo TVN xét thấy đây là thương tích nhẹ, không yêu cầu giám định nên cơ quan công an đã xử lý hành chính đối với LVH là phù hợp, Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Sau khi phạm tội bị cáo đã ra cơ quan công an huyện Yên Định để đầu thú, thành khẩn khai báo hành vi mà mình đã thực hiện; bị cáo cũng đã tích cực tác động đến gia đình bồi thường cho các bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội , nhân thân của bị cáo và hình phạt:
Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm, xâm phạm đến sức khỏe của nhiều người, gây hậu quả rất nghiêm trọng, để lại di chứng lâu dài về sức khỏe cho các bị hại. Do vậy cần xử lý nghiêm về pháp luật hình sự, cần thiết phải áp dụng Điều 38 Bộ luật hình sự để xử phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo thành công dân tốt, đồng thời răn đe, giáo dục và phòng ngừa TVC. Tuy nhiên, nguyên nhân dẫn đến sự việc gây thương tích một phần do lỗi từ phía bị hại, hơn nữa bản thân bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, do vậy cần giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Thương tích của các bị hại LVN, LVQ và TVC hoàn toàn do lỗi của bị cáo gây ra, do vậy bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các bị hại.
* Đối với anh TVC, Hội đồng xét xử chấp nhận các khoản sau:
+ Tiền viện phí phải trả tại Bệnh viện đa khoa huyện Yên Định: 635.731đ.
+ Tiền chi phí dịch vụ khám chữa bệnh tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa: 3.397.413đ;
+ Tiền thuốc có hóa đơn: 9.658.000đ;
+ Tiền công thu nhập bị mất trong 07 ngày điều trị tại bệnh viện và 30 ngày điều trị tại nhà x 200.000đ/ngày = 7.400.000đ;
+ Tiền công người chăm sóc trong 07 ngày điều trị tại bệnh viện x 200.000đ/ngày = 1.400.000đ;
+ Tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe, mua ăn uống trong thời gian nằm viện:
700.000đ;
+ Chấp nhận mức bồi thường tổn thất về tinh thần bằng 15 tháng lương cơ sở x 1.490.000đ/tháng = 22.350.000đ.
Tổng cộng: 45.541.000đ (đã làm tròn).
Bị cáo đã tác động đến gia đình bồi thường cho anh TVC số tiền 15 triệu đồng (BL254), số tiền còn lại 30.541.000đ buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho anh TVC.
* Đối với anh LVQ, Hội đồng xét xử chấp nhận các khoản sau:
+ Chi phí xe chở từ xã G đến bệnh viện: 200.000đ.
+ Tiền viện phí phải trả tại Bệnh viện đa khoa huyện Yên Định: 807.918đ.
+ Tiền thuốc có hóa đơn: 504.000đ;
+ Tiền công thu nhập bị mất trong 01 ngày điều trị tại bệnh viện: 200.000đ;
+ Tiền công người chăm sóc trong 01 ngày điều trị: 200.000đ;
+ Tiền bồi dưỡng, mua ăn uống trong thời gian nằm viện: 100.000đ;
+ Chấp nhận mức bồi thường tổn thất về tinh thần bằng 01 tháng lương cơ sở x 1.490.000đ/tháng = 1.490.000đ.
Tổng cộng: 3.520.000đ (đã làm tròn) Bị cáo đã tác động đến gia đình bồi thường cho anh LVQ số tiền 2 triệu đồng, số tiền còn lại 1.520.000đ buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho anh LVQ.
* Đối với anh LVN: Quá trình điều tra, anh LVN yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí điều trị là 2.000.000đ. Bị cáo đã tác động đến gia đình để bồi thường cho anh LVN đủ số tiền trên, hiện nay anh LVN không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về xử lý vật chứng:
Đối với vật chứng là 03 chiếc gậy gồm 02 gậy sắt và 01 gậy gỗ, hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Định, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với con dao là hung khí mà bị cáo gây thương tích cho các bị hại, sau khi gây án bị cáo bỏ chạy vào ruộng mía và đã ném con dao này xuống sông Mã khu vực gần trạm bơm thôn 10 xã G. Cơ quan công an đã truy tìm nhưng không thu giữ được, do vậy không có cơ sở để xử lý đối với vật chứng này.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 584, Điều 585, Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 260, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1. Tuyên bố bị cáo TVN phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt bị cáo TVN 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 01/01/2020.
2. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo TVN phải bồi thường cho anh TVC 45.541.000đ (Bốn mươi lăm triệu năm trăm bốn mươi mốt nghìn đồng), bị cáo đã bồi thường được 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng), số tiền còn lại 30.541.000đ (Ba mươi triệu năm trăm bốn mốt nghìn đồng) buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho anh TVC.
Bị cáo TVN phải bồi thường cho anh LVQ 3.520.000đ (Ba triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng), bị cáo đã bồi thường được 2.000.000đ (Hai triệu đồng), số tiền còn lại 1.520.000đ (Một triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng) buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho anh LVQ.
3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau: 01 ống kim loại màu trắng dài 90cm, đường kính 6cm; 01 gậy bóng chày bằng kim loại màu đỏ đen, dài 70cm, bề mặt gậy có chữ “BTA”; 01 gậy gỗ màu vàng nhạt dài 65cm, đầu gậy có đường kính 5cm, tay cầm có đường kính 4cm.
(Các vật chứng kể trên hiện đang được bảo quản tại chi cục Thi hành án huyện Yên Định, theo phiếu nhập kho số NK 26 ngày 10/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Định.) 4. Về án phí: Bị cáo TVN phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 1.600.000đ (Một triệu sáu trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch nộp ngân sách Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo, các bị hại TVC và LVQ có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Anh LVN vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 28/2020/HS-ST ngày 31/08/2020 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 28/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Định - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về