Bản án 28/2020/HS-ST ngày 29/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG - TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 28/2020/HS-ST NGÀY 29/06/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 06 năm 2020, tại Nhà văn hóa thôn R, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 26/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 06 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 06 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn C (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 19/12/1992 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Thôn V, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1961 (đã chết 2009) và bà Cao Thị Đ, sinh năm 1961; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không có, tiền án: Tại Bản án số 94/2015/HSPT ngày 27/3/2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã xử phạt Nguyễn Văn C 06 năm tù về tội Mua bán người; bị án được tha tù trước thời hạn có điều kiện, thời gian thử thách 01 năm 01 tháng 16 ngày kể từ ngày 17/8/2018, đến ngày 03/10/2019 đã chấp hành xong án phạt tù, bị án đã thi hành xong các khoản án phí, truy thu, bồi thường dân sự của bản án.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/02/2020 tại nhà tạm giữ Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Vương Văn T, sinh năm 1990. Địa chỉ: Thôn S, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1994. Địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện B, tỉnh Hà Giang. Vắng mặt.

3. Bà Cao Thị Đ, sinh năm 1961. Địa chỉ: Thôn V, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Hoàng Văn V, sinh năm 1996. Địa chỉ: Thôn S, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

2. Bà Vũ Thị H, sinh năm 1975. Địa chỉ: Thôn T, xã S, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

3. Bà Sầm Thị K, sinh năm 1973. Địa chỉ: Thôn H, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

4. Anh Lưu Mạnh T, sinh năm 1989. Địa chỉ: Thôn S, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 13 giờ 15 phút ngày 26/02/2020, tại khu vực đường liên thôn V, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; tổ công tác Công an huyện Hữu Lũng làm nhiệm vụ, phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn C có hành vi bán 01 túi nilon, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy tổng hợp cho Vương Văn T – khi đó đang đứng cạnh xe mô tô Biển kiểm soát 12H1 – 345.68, gần nơi bắt giữ còn có Hoàng Văn V chứng kiến.

Tang vật thu giữ tại túi áo khoác và túi quần bên phải của Vương Văn T có 01 túi nilon bên trong đựng chất tinh thể màu trắng, 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ. Thu giữ tại túi quần sau bên phải và túi quần trước của Nguyễn Văn C số tiền 200.000 đồng, 01 ví giả da bên trong có 2.260.000 đồng, 02 điện thoại di động nhãn hiệu Itel và Oppo màu xanh. Trên nền đất, tại vị trí Nguyễn Văn C đứng có 01 gói giấy màu trắng (loại giấy vệ sinh) bên trong có 02 túi nilon đều đựng chất tinh thể màu trắng. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn C, phát hiện và thu giữ 01 túi nilon màu trắng, miệng kẹp dính có viền đỏ, bên trong có 02 túi nilon cùng đựng chất tinh thể màu trắng tại lỗ viên cay ở cột chuồng trâu của gia đình và một số túi nilon có kích thước tương tự được cất dấu ở nhiều nơi trong nhà.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Văn C khai nhận: Bị cáo bắt đầu sử dụng ma túy Methamphetamine dạng “đá” từ khoảng đầu tháng 02/2020. Để có ma túy cho bản thân sử dụng, Nguyễn Văn C nảy sinh ý định mua ma túy về chia nhỏ, bán lại cho người khác kiếm lời. Ngày 24/02/2020, Nguyễn Văn C đi xuống thành phố B, tỉnh Bắc Ninh mua của một người đàn ông tên H (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy tổng hợp dạng “đá” với giá 500.000 đồng, sau đó mang về nhà chia thành 05 gói nhỏ để sử dụng và bán kiếm lời. Khoảng 13 giờ ngày 26/02/2020, Nguyễn Văn C đang ở xưởng gỗ bóc thuộc thôn Đ, xã H thì có Vương Văn T gọi điện hỏi mua 200.000 đồng tiền ma túy “đá”, bị cáo đồng ý. Nguyễn Văn C lấy 03 túi nilon đựng ma túy được bọc ngoài bằng một mảnh giấy vệ sinh mang theo từ nhà, xé mảnh giấy vệ sinh ra, gói riêng một túi ma túy để bán, 02 túi ma túy còn lại cất vào túi quần bên trái.

Sau khi hẹn với Nguyễn Văn C, Vương Văn T không có xe nên đã nhờ Hoàng Văn V chở đến xưởng gỗ bóc. Khi đi đến đoạn đường liên thôn gần cổng nhà Nguyễn Văn C thì xe hết xăng nên Vương Văn T gọi điện nhờ mua hộ 0,5 lít xăng. Nguyễn Văn C điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát 12H1 – 345.68 đi mua xăng về đưa cho Vương Văn T; tại đây Vương Văn T đã trực tiếp đưa 200.000 đồng và được Nguyễn Văn C đưa cho 01 gói ma túy cầm ở tay, Vương Văn T vứt mảnh giấy vệ sinh đi rồi cất túi ma túy vào áo khoác, ngay lúc đó lực lượng Công an bắt quả tang. Quá trình bắt giữ, Nguyễn Văn C rút tay từ trong túi quần bên trái ra làm rơi 02 túi nilon đựng ma túy được gói bằng giấy vệ sinh.

Tại bản kết luận giám định số 96/KL-PC09 ngày 28/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn đã kết luận: Toàn bộ số chất tinh thể màu trắng thu giữ đều là chất ma túy Methamphetamine, trong đó số ma túy thu giữ của Vương Văn T có khối lượng 0,040 gam (đã trừ bì); số ma túy thu giữ của Nguyễn Văn C có tổng khối lượng 0,813 gam (đã trừ bì), gồm số ma túy thu giữ khi bắt quả tang là 0,394 gam, thu tại chỗ ở 0,419 gam.

Tại bản kết luận giám định số 92/KLGĐ-PC09 ngày 02/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận số tiền 2.460.000 đồng thu giữ của Nguyễn Văn C là tiền thật Việt nam đồng.

Tại bản cáo trạng số: 29/CT-VKSHL-HS ngày 16/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố Nguyễn Văn C về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Cao Thị Đ (là mẹ của bị cáo) chứng kiến việc khám xét tại nhà thu giữ tang vật là số ma túy của con trai đồng thời đề nghị được nhận lại số tiền 2.260.000 đồng theo nguyện vọng của Nguyễn Văn C phụ giúp mẹ già, gia cảnh khó khăn.

Tại phần tranh luận, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 251, khoản 1 Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, 50 của Bộ luật Hình sự; khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự :

Tuyên bố Nguyễn Văn C phạm Tội mua bán trái phép chất ma túy, xử phạt bị cáo từ 03 đến 04 năm tù; không áp dụng hình phạt tiền bổ sung.

Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy, vỏ bao gói kèm theo và 01 chiếc Biển kiểm soát xe mô tô, 03 túi nilon; tịch thu, hóa giá, sung công quỹ 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO do bị cáo sử dụng liên lạc mua bán ma túy với Vương Văn T; tịch thu, sung công quỹ số tiền 200.000 đồng do bị cáo bán ma túy mà có; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Itel, 01 ví giả da và số tiền 2.260.000 đồng do không liên quan đến hành vi phạm tội. Xác nhận cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã bàn giao cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Bắc Giang chiếc xe mô tô HONDA VISON để giải quyết theo thẩm quyền.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo tranh luận, cho rằng mức án theo luận tội là cao và đề nghị được trả lại chiếc điện thoại Oppo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận. Đại diện Viện kiểm sát đối đáp, giữ nguyên quan điểm luận tội, bởi hành vi mua bán ma túy của bị cáo gây nguy hại cho xã hội và có tình tiết tăng nặng thuộc trường hợp tái phạm; đối với chiếc điện thoại cần tịch thu, hóa giá bởi bị cáo đã dùng liên lạc bán ma túy cho Vương Văn T.

Lời nói sau cùng của bị cáo thể hiện thái độ ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng. Các quyết định, hành vi tố tụng đã thực hiện là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại đối với quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa Nguyễn Văn C đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, các lời khai, trình bày của Vương Văn T, Hoàng Văn V đồng thời hoàn toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ xác định: Ngày 24/02/2020, Nguyễn Văn C đã mua 01 gói ma túy Methamphetamine với giá 500.000 đồng, sau đó mang về nhà chia thành 05 gói nhỏ, mục đích để sử dụng thỏa mãn nhu cầu bản thân và bán cho người khác kiếm tiền lời. Vào khoảng 13h15 ngày 26/02/2020, tại khu vực đường liên thôn V, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, Nguyễn Văn C đã có hành vi bán 01 túi ma túy có khối lượng 0,040 gam Methamphetamine trị giá 200.000 đồng cho Vương Văn T. Quá trình bắt quả tang, khám xét khẩn cấp thu giữ thêm của Nguyễn Văn C 0,813 gam ma túy Methamphetamine ( gồm số ma túy thu giữ khi bắt quả tang 0,394 gam và thu tại chỗ ở 0,419 gam).

[3] Hành vi mà bị cáo đã thực hiện gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh tại địa phương bởi ma tuý không chỉ huỷ hoại sức khoẻ mà còn làm suy thoái nòi giống, tàn phá phẩm giá và nhân cách của con người và là nguyên nhân làm phát sinh hàng loạt các loại tội phạm khác. Bị cáo là người có thể chất phát triển bình thường, có đầy đủ năng lực hành vi, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì hám lợi nên vẫn thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.

[4] Đảm bảo kết luận bị cáo Nguyễn Văn C đã phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng đã truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] Để xem xét quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nêu trên thì cần phải xem xét đến nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt.

[6] Bị cáo có nhân thân không tốt, bản thân đã từng phạm tội, được tập trung giáo dục, cải tạo nhưng không hoàn lương mà tiếp tục sử dụng ma túy, thậm chí còn gieo rắc cái chết trắng cho người khác bằng cách bán ma túy kiếm tiền lời một cách nhanh chóng không thông qua lao động chân chính.

[7] Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Nguyễn Văn C bị xử phạt 06 năm tù về hành vi mua bán người, đã chấp hành xong Bản án vào ngày 03/10/2019 chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục phạm tội nghiêm trọng với lỗi cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 và khoản 1, Điều 53 Bộ luật hình sự.

[8] Bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản Điều 51 Bộ luật hình sự.

[9] Hình phạt chính: Đánh giá hành vi của bị cáo tuy mới chứng minh được mua bán ma túy lần đầu và số lượng ma túy bán không nhiều nhưng bị cáo là người có nhân thân không tốt, có 01 tình tiết tăng nặng do tái phạm trong khi chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ. Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo hình phạt tù ở trên mức khởi điểm của khung hình phạt bị truy tố với khoảng thời gian đủ dài để đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung; quan điểm đề nghị luận tội và ý kiến đối đáp của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với ý kiến tranh luận của bị cáo là phù hợp với các nhận định nêu trên nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh ngày 03/3/2020 có xác nhận của chính quyền địa phương, bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị đảm bảo thi hành án, do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[11] Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số ma túy cùng vỏ bao nilon, 03 vỏ bao nilon, mảnh giấy gói kèm theo vì là vật cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng; tịch thu, hóa giá phương tiện phạm tội 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, trong đó 01 chiếc màu xanh của Nguyễn Văn C và 01 chiếc màu đỏ của Vương Văn T được sử dụng liên lạc mua bán ma túy; tịch thu số tiền 200.000 đồng thu giữ của bị cáo do bán ma túy mà có. Trả lại cho Nguyễn Văn C các tài sản gồm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel, 01 chiếc ví giả da do không liên quan hành vi phạm tội. Riêng đối với số tiền 2.260.000 đồng, tại phiên tòa bị cáo đề đạt nguyện vọng được chuyển số tiền này lại cho bà Cao Thị Đ; thấy rằng số tiền trên không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần được trả lại cho chủ sở hữu và việc bị cáo có tâm nguyện chuyển giao số tiền cho mẹ của bị cáo để đỡ đần, trang trải vì gia đình có hoàn cảnh rất khó khăn, nghèo khó là hoàn toàn chính đáng, nhân văn nên được Tòa chấp nhận.

[12] Đối với chiếc xe mô tô có gắn Biển kiểm soát 12H1 – 345.68, nhãn hiệu Honda Vison do Nguyễn Văn C điều khiển đến địa điểm bán ma túy; bị cáo khai được mua lại của Hứa Tuấn Đ, sinh năm 1991, trú tại thôn H, xã M, huyện H vào ngày 22/01/2020. Quá trình điều tra, xác minh chiếc xe trên được đăng ký mang Biển kiểm soát 23D1 – 360.60 đứng tên chủ sở hữu Nguyễn Thị N và là vật chứng của nguồn tin tố giác tội phạm nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã bàn giao chiếc xe cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Bắc Giang tiếp tục giải quyết, xử lý theo luật định.

[13] Đối với chiếc Biển kiểm soát 12H1 – 345.68, Nguyễn Văn C trình bày đã được gắn sẵn khi mua xe. Kết quả điều tra làm rõ số hiệu chiếc Biển kiểm soát là của chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 125I, chủ sở hữu là chị Vũ Thị H hiện vẫn đang sử dụng, đăng ký biển kiểm soát trên. Tại kết luận giám định số 174/KLGĐ-PC09 ngày 20/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn xác định Biển kiểm soát 12H1 – 345.68 “ có đặc điểm chung và đặc điểm riêng khác với biển kiểm soát mẫu”; đủ căn cứ khẳng định chiếc Biển kiểm soát thu giữ từ chiếc xe Honda Vison do Nguyễn Văn C điều khiển có nguồn gốc trái pháp luật nên bị tịch thu, tiêu hủy.

[14] Con người, sự việc liên quan: Đối với người đàn ông tên “H” bán ma túy cho bị cáo, do không rõ nhân thân, lai lịch nên cơ quan điều tra không có cơ sở làm rõ, đề nghị xử lý trong vụ án này. Đối với Vương Văn T là người mua ma túy của Nguyễn Văn C về sử dụng, số ma túy thu giữ có khối lượng 0,040 gam Methamphetamine, chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự, Công an huyện H đã Quyết định xử lý vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là phù hợp luật định.

[15] Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 53, các Điều 38, 50 của Bộ luật Hình sự; các điểm a, b, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm Tội mua bán trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 03 (ba) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 26/02/2020.

2. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 03 (ba) phong bì thư niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 (một) mảnh giấy vệ sinh màu trắng, 01(một) túi nilon màu trắng miệng kẹp dính viền đỏ, 01(một) túi nilon màu trắng, cạnh hàn kín, miệng hở, 01(một) túi nilon màu trắng miệng kẹp dính, hàn kín.

+ 01 (một) Biển kiểm soát 12H1-345.68

- Tịch thu, hóa giá, nộp ngân sách Nhà nước:

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ, imei có 5 số cuối 76311, đã qua sử dụng.

+ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh, imei có 5 số cuối 99636, đã qua sử dụng.

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: Số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) của Nguyễn Văn C.

- Trả lại cho Nguyễn Văn C: Các tài sản gồm 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen, imei có 5 số cuối 30144, đã qua sử dụng và 01 (một) ví giả da màu nâu, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho Nguyễn Văn C: Số tiền 2.260.000đ (hai triệu, hai trăm, sáu mươi nghìn đồng); khi bản án có hiệu lực pháp luật thi hành và bà Cao Thị Đ có đơn đề nghị thi hành án, số tiền sẽ được chuyển giao lại cho bà Cao Thị Đ theo nguyện vọng của bị cáo Nguyễn Văn C sau khi khấu trừ 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

- Chuyển vật chứng: 01 chiếc xe mô tô, nhãn hiệu HONDA VISON, màu sơn đen xám, số khung RLHJF5839KY055050, số máy JF86E2119464, đã qua sử dụng cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang để giải quyết theo quy định; xác nhận cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng đã thi hành, bàn giao theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14/5/2020 thực hiện Quyết định xử lý vật chứng số 16 ngày 12/5/2020.

(Số tiền nêu trên hiện đang tạm gửi tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn và chi tiết các vật chứng trên được ghi theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/6/220 giữa Công an huyện Hữu Lũng với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn).

3. Án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp Ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2020/HS-ST ngày 29/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về