Bản án 28/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 28/2020/HS-ST NGÀY 26/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở TAND tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 03 năm 2020 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa đối với bị cáo:

Huỳnh Hồng S, sinh ngày 15/6/2002, tại tỉnh Đồng Nai; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp X, xã X1, huyện X2, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: Lớp 02/12; Dân tộc: Chăm; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Hồi giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Hồng P (đã chết) và bà Sa Ly H, sinh năm 1977; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không:

Bị cáo bị Công an huyện Xuân Lộc bắt tạm giữ ngày 24/3/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. (Có mặt)

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Sa Ly H, sinh năm 1977. Địa chỉ: Ấp X, xã X1, huyện X2, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt).

- Người bào chữa theo luật định cho bị cáo: Luật sư Dương Văn Ổn, thuộc văn phòng luật sư Dương Văn Ổn - Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai (Có mặt).

- Bị hại:

1. Anh MUHAMMAD A, sinh năm 1990. (Vắng mặt) Địa chỉ: Dương Bá T, phường X3, Quận X4, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Anh SHARIQUE A1, sinh năm 1983. (Vắng mặt)

3. Anh ZEESHAN AHMAD A2, sinh năm 1989. (Vắng mặt)

4. Ông MOHAMMAD S1, sinh năm 1967. (Vắng mặt)

(Anh A1, anh A2, ông S1 đã xuất cảnh ngày 22/8/2019 theo Văn bản số 110/PA08-Đ4 ngày 14/02/2020).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Huỳnh Quỳnh Đ, sinh năm 2000. (Có mặt)

2. Anh MALIK, sinh năm 1994. (Vắng mặt) Cùng địa chỉ: Địa chỉ: Ấp X, X5, X6, Đồng Nai.

3. Ông Phạm Văn H1, sinh năm 1959. (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp X8, X7, X6, Đồng Nai.

- Người làm chứng:

1. Chị Lê Thị Tuyết M, sinh năm 2002. (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp X8, X7, X6, Đồng Nai.

2. Chị Nguyễn Thị Thanh T1, sinh năm 2005. (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp X9, X7, X6, Đồng Nai.

3. Anh AB ĐÔ HA M, sinh năm 1975. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp X, X7, X6, Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Ngày 30 tháng 7 năm 2019, đoàn người Ấn Độ đi hành hương từ Campuchia đến Việt Nam. Khi đến TP. Hồ Chí Minh thì được anh MUHAMMAD A, sinh năm 1990, Quốc tịch:Việt Nam, ngụ tại: phường X3, Quận X4, thành phố Hồ Chí Minh làm người phiên dịch và dẫn đoàn đến thánh đường hồi giáo NUO RUT EH SAAN tại Ấp X, xã X1, huyện X2, tỉnh Đồng Nai để hành lễ và nghỉ tại thánh đường này.

Khoảng 18 giờ ngày 06/8/2019, Huỳnh Hồng S khi đi qua khu cổng thánh đường thì thấy có nhiều dép để bên ngoài hành lang thánh đường, thấy bên trong có nhiều người nước ngoài (Ấn Độ) đang hành lễ, S nảy sinh ý định trộm tài sản của người hành lễ để tiêu xài cho cá nhân. Khoảng 01 giờ sáng ngày 07/8/2019, S đi bộ (một mình) đến thánh đường để trộm tài sản, khi đến thấy cửa cổng mở không khóa, S đã vào trong thánh đường thấy mọi người đã ngủ, S đã lén túi áo của các thành viên đoàn người hành hương treo ở trên tường và lấy trộm được tài sản của 03 người quốc tịch Ấn Độ và 01 người quốc tịch Việt Nam, gồm :

- Trộm của ông MOHAMMAD S1, sinh năm: 1967, quốc tịnh Ấn Độ, PASSPORT N9617489; Tài sản trộm được 1.100.000đ (một triệu một trăm ngàn đồng) và 1100 Rupee (tiền Ấn Độ).

- Trộm của ông SHARIQUE A1, sinh năm: 1983, quốc tịch Ấn Độ, số PASSPORT S1020809; Tài sản trộm được số tiền 50USD, 50 Rupee (tiền Ấn Độ) và 600 Riel (tiền Campuchia).

- Trộm của ông ZEESHAN AHMAD A2, sinh năm: 1989, quốc tịch Ấn Độ, PASSPORT L6752284; Tài sản trộm được là 01 (một) điện thoại hiệu Xiaomi MAI 132.

- Trộm của anh MUHAMMAD A, SN: 1990, quốc tịch: Việt Nam, ngụ tại phường X3, Quận X4, TP. Hồ Chí Minh; Tài sản trộm được là 01 (một) cục sạc dự phòng hiệu Xiaomi kèm theo dây sạc.

Sau khi trộm được số tài sản trên S đã tẩu thoát ra bên ngoài đi bộ về nhà tại Ấp X, xã X1, X6, Đồng Nai cất dấu số tài sản trộm được.

Đến 01 giờ 30 phút ngày 07/8/2019 một thành viên trong đoàn là ông MOHAMMAD S1, thức dậy đi vệ sinh thì phát hiện khu vực nơi các thành viên đoàn ngủ đồ đạc bị xáo trộn nên cùng thành viên đoàn kiểm tra thì phát hiện bị mất trộm tài sản của 04 người như nêu trên, sau đó đã báo c ho ông AB Đô Ha M là giáo cả quản lý thánh đường biết. Sáng ngày 07 tháng 8 năm 2019 đại diện thánh đường là ông AB Đô Ha M đã báo chính quyền địa phương xã X1, huyện X2, tỉnh Đồng Nai biết.

* Vật chứng thu giữ:

- Số tiền 1.291.000 đồng; 50 USD (đô la Mỹ); 600 Riel (tiền Campuchia):

1150 Rupee (tiền Ấn Độ); 01 (một) điện thoại hiệu Xiaomi MAI 132; 01 (một) cục sạc dự phòng hiệu Xiaomi kèm theo dây sạc màu trắng.

* Tại kết luận định giá tài sản số: 5022/STC-HĐ ĐGTSTTHS ngày 13/9/2019 Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai xác định: Tổng số tài sản bị can S trộm cắp có trị giá 3.757.154 đồng (Ba triệu bảy trăm năm mươi bảy ngàn một trăm năm mươi bốn đồng) Trong quá trình điều tra Huỳnh Hồng S khai nhận số tài sản trộm được, S đã trả nợ 1.100.000 đồng cho anh trai là Huỳnh Quỳnh Đ; đưa cho bạn gái (là chị Lê Thị Tuyết M), gồm 01 (một) điện thoại hiệu Xiaomi MAI 132; 01 (một) cục sạc dự phòng hiệu Xiaomi và 01 dây sạc màu trắng để sử dụng; đưa anh Ma Li K gồm: 600 Riel (tiền Campuchia); 1150 Rupee (tiền Ấn Độ); 50 USD (đô la Mỹ), để đổi thành tiền Việt Nam sử dụng. Khi đưa tài sản S nói với anh Ma Li Ki, chị M, anh Đ là tài sản do S nhặt được.

Sau khi nhận tài sản, anh Ma Li K đã đến tiệm vàng Kim Duy Hoàng địa chỉ kinh doanh tại ki ốt thuộc chợ X9 tại Ấp X, xã X7, huyện X2 (do bà Lê Thị Đ1 là người đứng tên chủ cơ sở kinh doanh) gặp ông Phạm Văn H (chồng bà Đ1) đổi số tiền 50 USD (đô la Mỹ) được 1.100.000 đồng. Riêng số tiền 600 Riel (tiền Campuchia); 1150 Rupee (tiền Ẩn Độ) ông H1 không biết tiền gì nên không đổi, anh Ma Li K đã giữ lại. Cơ quan điều tra đã triệu tập làm việc với S và những người liên quan, kết quả S đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, những người liên quan đã thừa nhận các hành vi đã thực hiện như đã nêu trên. Đến lúc 16 giờ ngày 07/8/2019 Cơ quan điều tra đã thu từ Huỳnh Quỳnh Đ, Phạm Văn H1, Ma Li K; Lê Thị Tuyết M toàn bộ tài sản bị mất trộm nêu trên.

- Ngày 07/8/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đã lập biên bản trả lại tài sản bị mất cho các bị hại. Các bị hại đã nhận lại các tài sản bị mất, không thắc mắc khiếu nại và yêu cầu bồi thường về dân sự.

- Riêng ông Phạm Văn H1 không yêu cầu Huỳnh Hồng S bồi thường số tiền 1.100.000 đồng.

* Tại Cáo trạng số 1416/CT-VKS-P2 ngày 08/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Huỳnh Hồng S về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện VKSND tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố theo bản Cáo trạng và đề nghị xử phạt bị cáo Huỳnh Hồng S mức án từ 06 (sáu) tháng tù đến 08 (tám) tháng tù.

- Quan điểm của Luật sư Dương Văn Ổn bào chữa cho bị cáo Huỳnh Hồng S:

Thống nhất về tội danh như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Hành vi phạm tội của bị cáo có tính chất giản đơn, tài sản trộm cắp có giá trị thấp, đã thu hồi trả lại cho người bị hại. Lúc phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi, có nhân thân tốt, trình độ học vấn thấp, là người dân tộc chăm, nhận biết pháp luật hạn chế; bị cáo có hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, cha bị cáo mất sớm, mẹ bị cáo đi lấy chồng khác, do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật đối với bị cáo như: bị cáo đã nhận Kết luận điều tra, cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo đúng trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong suốt quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Vụ án do có bị hại là người nước ngoài nên căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai truy tố theo thẩm quyền giải quyết vụ án là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với bị hại là anh SHARIQUE A1, anh ZEESHAN AHMAD A2 và anh MOHAMMAD S1 là người nước ngoài (cùng quốc tịch Ấn độ), đã nhận lại các tài sản bị mất do bị cáo S trộm cắp và không yêu cầu bồi thường về dân sự, các bị hại đã xuất cảnh về nước ngày 22/8/2019, xét thấy việc xét xử vắng mặt các bị hại không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên căn cứ vào khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 Tòa án không triệu tập và xét xử vắng mặt các bị hại là có căn cứ pháp luật.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, qua thẩm vấn công khai và đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, bị cáo S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, cụ thể như sau: Vào khoảng 01 giờ sáng ngày 07/8/2019 tại thánh đường hồi giáo NUO RUT EH SAAN ngụ tại Ấp X, xã X1, huyện X2, tỉnh Đồng Nai, Huỳnh Hồng S lén lút vào Thánh đường lấy trộm tài sản của các ông MOHAMMAD S1, SHARIQUE A1, ZEESHAN AHMAD A2 (đều có Quốc tịch Ấn Độ) và ông MUHAMMAD A (Quốc tịch Việt Nam) với tổng tài sản trị giá là 3.757.154 đồng bao gồm: số tiền 50 USD (đô la Mỹ); 600 Riel (tiền Campuchia); 1150 Rupee (tiền Ấn Độ); 01 (một) điện thoại hiệu Xiaomi MAI 132; 01 (một) cục sạc dự phòng hiệu Xiaomi kèm theo dây sạc và 1.100.000 đồng.

Với hành vi phạm tội như trên, bị cáo Huỳnh Hồng S bị VKSND tỉnh Đồng Nai truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Do đó cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt phù hợp tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Trong vụ án này, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, có nhân thân chưa tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã thu hồi trả cho người bị hại, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là dân tộc thiểu số. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, Điều 101 BLHS 2015, Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ và không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà giao cho chính quyền địa phương quản lý là đủ. Tuy nhiên, trong quá trình truy tố, xét xử bị cáo được tại ngoại điều tra lại thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản của người khác tại địa bàn huyện X2. Ngày 24/3/2020 bị cáo đã bị Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Lộc bắt giữ điều tra cho đến nay. Do đó cần xử phạt giam bị cáo để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Về trách nhiệm dân sự: Ông Phạm Văn H1 không yêu cầu Huỳnh Hồng S bồi thường số tiền 1.100.000 đồng nên không đặt ra xem xét.

[3] Về xử lý vật chứng: Số tiền 1.291.000 đồng; 50 USD (đô la Mỹ); 600 Riel (tiền Campuchia); 1150 Rupee (tiền Ấn Độ); 01 (một) điện thoại hiệu Xiaomi MAI 132; 01 (một) cục sạc dự phòng hiệu Xiaomi kèm theo dây sạc màu trắng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đã trả lại tài sản bị mất cho các bị hại nên không đặt ra giải quyết.

[4] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Xét quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo về nhân thân, hoàn cảnh gia đình phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Riêng đề nghị xem xét khoan hồng là không phù hợp nên không được chấp nhận.

[6] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Huỳnh Hồng S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Hồng S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[1] Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Hồng S 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/3/2020.

[2] Về án phí: Buộc bị cáo Huỳnh Hồng S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[3] Bị cáo, luật sư bào chữa cho bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người đại diện hợp pháp của bị cáo – bà Sa Ly H và những bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:28/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về