Bản án 28/2020/HS-ST ngày 18/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 28/2020/HS-ST NGÀY 18/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 12/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2020/QĐXXST-HS ngày 05/5/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Sỹ D, sinh ngày 11/9/1985; nơi ĐKHKTT: Khu phố Trung H, phường Đình B, thị xã S, tỉnh Bắc Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Sỹ T và bà Nguyễn Thị T, đều sinh năm 1957; vợ là Lý Thị L, sinh năm 1990 (đã ly hôn); có 02 con: Lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2012; tiền sự: Không:

Tiền án: Tại bản án số: 315/2014/HSPT ngày 19/6/2014 của Tòa phúc thẩm tại Hà Nội – TAND Tối cao xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 3 Điều 194 BLHS năm 1999, buộc bị cáo phải nộp lại số tiền 23.000.000đ và 200.000đ án phí HSST. D chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/01/2018.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/8/2019; hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam – Công an tỉnh Bắc Ninh; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo D: Ông Vũ Nghị Lực – Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH Dân Trí – Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh; có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. NLQ1, sinh năm 1985; trú tại: thôn Nghi A, xã Trạm L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; vắng mặt.

2. NLQ2, sinh năm 1972; trú tại: thôn Lũng S, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; vắng mặt.

3. Ông Nguyễn Sỹ T, sinh năm 1957; trú tại: Khu phố Trung H, phường Đình B, thị xã S, tỉnh Bắc Ninh; vắng mặt.

4. NLQ3, sinh năm 1978; trú tại khu phố Xuân Đ, phường Đ, thị xã S, tỉnh Bắc Ninh; vắng mặt.

5. NLQ4, sinh năm 1987; trú tại: Khu Yên M, phường K, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh; có mặt.

* Người làm chứng:

1. NLC1, sinh năm 1979; trú tại: thôn C, xã C, huyện G, thành phố Hà Nội:

vắng mặt.

2. Anh Vũ Quang D, sinh năm 1979; trú tại: Tổ 29, phố Đ, phường T, quận L, thành phố Hà Nội; vắng mặt.

3. NLC2, sinh năm 1981; trú tại: khu phố Xuân Đ, phường Đ, thị xã S, tỉnh Bắc Ninh; vắng mặt.

4. NLC3, sinh năm 1991; trú tại: Khu Yên M, phường K, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh; có mặt.

5. NLC4, sinh năm 1989; trú tại: khu phố T, phường Đ, thị xã S; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18h45’ ngày 14/8/019, tại Khu phố Trung H, phường Đình B, thị xã S, tỉnh Bắc Ninh. Công an thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh phối hợp với Phòng Cảnh sát điều tra về ma túy Công an tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang đối tượng Nguyễn Sỹ D, sinh năm 1985, trú tại: Khu phố Trung H, phường Đình B, thị xã S, tỉnh Bắc Ninh có hành vi bán trái phép chất ma túy cho 02 đối tượng, gồm: NLQ1, sinh năm 1985 trú tại Nghi A, Trạm L, TT, Bắc Ninh và NLQ2, sinh năm 1972 trú tại: Lũng S, thị trấn L, T, Bắc Ninh.

Vật chứng thu giữ gồm: Thu của NLQ1 01 (một) gói nhỏ được bọc ngoài là lớp giấy có mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng. Thu của NLQ2 01 (một) gói nhỏ được bọc ngoài là lớp giấy có mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng. Thành và Sang khai nhận đó là các gói ma túy Thành và Sang vừa mua được của D với số tiền 220.000đ/1 gói. Thu của Nguyễn Sỹ D số tiền 440.000đ, D khai đó là tiền D có được do vừa bán ma túy cho Thành và Sang; 01 chiếc kéo kim loại có chuôi màu vàng đen; 02 (hai) mảnh giấy đều có một mặt màu vàng, một mặt màu trắng. Cơ quan Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong gói giấy chứa chất bột màu trắng đã thu của NLQ1 vào phong bì thư dán kín, Ký hiệu M1, niêm phong gói giấy chứa chất bột màu trắng đã thu của NLQ2 vào phong bì thư dán kín, Ký hiệu M2 theo quy định của pháp luật.

Hồi 21h30’ cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Sỹ D tại số nhà 58 Khu phố Trung H, phường Đình B, thị xã S, tỉnh Bắc Ninh thu giữ:

- 03 (ba) gói nhỏ đều được bọc ngoài bằng giấy màu trắng, bên trong đều chứa chất bột màu trắng, tại mặt giường ngủ sát với vị trí cửa cuốn tầng 1 niêm phong ký hiệu K1.

- 02 (hai) gói nhỏ đều được bọc ngoài bằng giấy màu trắng, bên trong đều chứa chất bột màu trắng, tại vị trí phía cuối giường ngủ sát với vị trí cửa cuốn tầng 1 niêm phong ký hiệu K2.

Thu tại tủ bếp tầng 1 số nhà 58 những đồ vật sau:

- 01 (một) hộp màu đen hình chữ nhật bên trong có:

+ 07 (bảy) túi nilon màu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa chất tinh thể màu trắng:

+ 01 (một) túi nilon màu xanh bên trong có chứa 145 (một trăm bốn mươi lăm) viên nén hình tròn màu hồng và 04 (bốn) viên nén hình tròn màu xanh:

- 01 (một) hộp nhựa màu hồng bên trong có: 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng và 01 (một) hộp sắt hình vuông bên trong có:

+ 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trong có chứa 05 (năm) viên nén hình tròn màu da cam:

+ 01 (một) gói giấy màu bạc bên trong có chứa 01 (một) túi nilon màu trắng chứa 50 (năm mươi) viên nén hình tròn màu xanh:

+ 01 (một) gói giấy màu bạc, bên trong có chứa một túi nilon màu trắng chứa 38 (ba mươi tám) viên nén hình tròn màu xanh:

Cơ quan điều tra cho tất cả những đồ vật thu tại tủ bếp tầng 1 vào một hộp bằng giấy bìa cát tông và niêm phong ký hiệu K3.

Thu giữ tại phòng vệ sinh tầng 3 số nhà 58:

- 178 (một trăm bảy mươi tám) gói nhỏ đều được bọc ngoài bằng lớp giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng, bên trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng:

- 01 (một) túi nilon màu xanh, bên trong có chứa chất màu hồng, - 30 (ba mươi) túi nilon màu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa 01 (một) viên nén hình tròn màu hồng:

- 03 (ba) túi nilon màu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa 01 (một) viên nén hình tròn màu xanh và 03 (ba) túi nilon màu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa chất màu hồng, - 20 (hai mươi) túi nilon màu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa viên nén màu hồng:

Cơ quan điều tra cho tất cả số vật thu giữ tại nhà vệ sinh tầng 3 vào một hộp bìa cát tông và niêm phong ký hiệu K4.

Tại nhà song song và cách số nhà 58 khoảng 2m qua sân:

Thu giữ tại tủ quần áo trong phòng ngủ tầng 1 của Nguyễn Sỹ D:

- 01 (một) hộp sắt hình chữ nhật bên trong có:

+ 01 (một) hộp giấy màu trắng có ghi chữ “OPPO” bên trong có: 01 (một) túi nilon màu xanh bên trong chứa 187 (một trăm tám mươi bảy) viên nén hình tròn màu hồng và 02 (hai) viên nén hình tròn màu xanh; 01 (một) túi nilon màu trắng chứa 06 (sáu) túi nilon màu trắng, bên trong mỗi túi nilon này đều chứa chất tinh thể màu trắng; 13 (mười ba) túi nilon màu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa chất tinh thể màu trắng, + 01 (một) hộp giấy hình vuông màu đỏ bên trong có chứa một túi nilon màu trắng chứa chất tinh thể màu trắng:

+ 01 (một) hộp hình chữ nhật bên trong chứa 06 (sáu) túi nilon màu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa chất tinh thể màu trắng:

+ 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong chứa 02 viên nén hình tròn màu xanh:

+ 01 (một) hộp giấy màu đen bên trong có chứa một túi nilon màu trắng, bên trong túi nilon có chứa chất bột trắng mịn.

Cơ quan điều tra niêm phong hộp sắt hình chữ nhật có chứa các đồ vật trên, thu giữ tại tủ quần áo trong phòng ngủ của D ký hiệu K5.

- 01 (một) CMND số 125133884 mang tên Nguyễn Sĩ D, do Công an tỉnh Bắc Ninh cấp này 10/9/2018.

Ngoài ra khi khám xét tại Chỗ ở của Nguyễn Sỹ D Cơ quan điều tra còn thu giữ các đồ vật sau: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Arblade BKS 99H1- 186.12 đã qua sử dụng; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream BKS 99G1- 133.23 đã qua sử dụng; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream BKS 99B1- 009.36 đã qua sử dụng; 05 (năm) mắt Camera, 01 (một) đầu thu Camera, 01 (một) màn hình tivi nhãn hiệu TCL; 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Iphone nắp lưng màu đỏ; 01 (một) điện thoại nhãn hiện Nokia nắp lưng màu xanh; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên chủ sở hữu là Trịnh Quang Linh đối với xe mô tô BKS số 99G1-133.23; tiền Việt Nam 53.160.000đ (năm mươi ba triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng).

Tại Kết luận giám định số: 584/KLGĐMT - PC 09 ngày 18 tháng 8 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh, Kết luận:

- Chất bột màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M1 có khối lượng 0,0239 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine:

- Chất bột màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M2 có khối lượng 0,0289 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine:

- Chất bột màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu K1 có khối lượng 0,1749 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine:

- Chất bột màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu K2 có khối lượng 0,1145 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine:

- Mẫu vật bên trong hộp K3:

+ Chất tinh thể màu trắng bên trong 01 (một) hộp màu đen hình thức nhật có khối lượng 20,5700 gam; Là ma túy; Loại ma túy Methamphetamine:

+ 145 (một trăm bốn mươi năm) viên nén hình tròn màu hồng và 04 (bốn) viên nén hình tròn màu xanh bên trong 01 (một) hộp màu đen hình chữ nhật có khối lượng 15,1767 gam; Là ma túy; Loại ma túy Methamphetamine:

+ Chất bột màu trắng bên trong hộp nhựa màu hồng có khối lượng 40,9349 gam; Là ma túy; Loại ma túy Methamphetamine:

+ 05 (năm) viên nén hình tròn màu da cam bên trong hộp sắt hình vuông có khối lượng 1,5046 gam; Là ma túy; Loại ma túy: MDMA:

+ 88 (tám mươi tám) viên nén hình tròn màu xanh bên trong hộp sắt hình vuông có khối lượng là 20,0632 gam; Là ma túy; Loại ma túy: MDMA:

- Mẫu vật bên trong hộp K4:

+ Chất bột màu trắng bên trong 178 gói nhỏ đều được bọc ngoài là lớp giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng có khối lượng 3,4552 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine:

+ Chất màu hồng bên trong 01 (một) túi nilon màu xanh có khối lượng 13,5523 gam; Là ma túy; Loại ma túy Methamphetamine:

+ Chất màu hồng bên trong 03 (ba) túi nilon màu trắng có khối lượng 0,2215 gam; Là ma túy; Loại ma túy Methamphetamine:

+ Các viên nén màu hồng, màu xanh có khối lượng 4,1994 gam; Là ma túy; Loại ma túy Methamphetamine:

- Mẫu vật bên trong hộp K5:

+ 187 (một trăm tám mươi bảy) viên nén hình tròn màu hồng cùng 02 (hai) viên nén hình tròn màu xanh bên trong hộp giấy ghi chữ “OPPO” có khối lượng 20,0206 gam; Là ma túy; Loại ma túy Methamphetamine:

+ Chất tinh thể màu trắng bên trong hộp giấy ghi chữ “OPPO” có khối lượng 120,9160 gam; Là ma túy; Loại ma túy Methamphetamine:

+ Chất tinh thể màu trắng bên trong hộp hình vuông màu đỏ có khối lượng 100,0605 gam; Là ma túy; Loại ma túy Methamphetamine:

+ Chất tinh thể màu trắng bên trong hộp hình chữ nhật có khối lượng 89,2100 gam; Là ma túy; Loại ma túy Methamphetamine:

+ 02 (hai) viên nén hình tròn màu xanh bên trong 01 túi nilon màu trắng có khối lượng 0,6391 gam; Là ma túy; Loại ma túy: MDMA:

+ Chất bột mịn màu trắng bên trong hộp giấy màu đen có khối lượng 1,4960 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Ketamine.

Tại Bản Cáo trạng số: 19/CT-VKSBN-P2 ngày 04/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Sỹ D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Sỹ D khai: Ngày 12/8/2019, D mua 20.000.000đ ma túy gồm ma túy đá, ngựa, Kẹo, Ke và Heroine của người phụ nữ không quen biết tại khu Chùa Dận, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh. D mang số ma túy mua được về nhà cất ở nhiều vị trí khác nhau, do có nhiều loại ma túy nên hiện nay D không thể nhớ được cất từng loại ma túy ở những vị trí nào. Khoảng 18h15’ ngày 14/8/2019 khi D đang ở nhà thì thấy có nhiều người đàn ông đứng ở trước cửa nhà D gọi cửa. 02 người trong số đó, sau D biết là NLQ1 và NLQ2 hỏi mua ma túy và cùng đưa tiền qua khe cửa cho D, mỗi người đưa 220.000đ, D đồng ý. D cầm tiền và đưa qua khe cửa cho Thành và Sang mỗi người 01 gói ma túy Heroine. Khi Sang cầm gói ma túy của D bán cho thì bị lực lượng Công an vào bắt quả tang D, Thành, Sang về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Thu giữ số ma túy bán cho Thành, Sang và số tiền 440.000đ. Sau đó Cơ quan Công an tiến hành khám xét số nhà 58, thu giữ và niêm phong ma túy thu được ở mặt giường giáp cửa cuốn của số nhà 58, ma túy trong tủ bếp số nhà 58, ma túy tại nhà vệ sinh tầng 3 số nhà 58, số ma túy trong phòng ngủ tầng 1 của nhà song song số nhà 58, Chứng minh thư nhân dân của D cùng các xe mô tô, giấy đăng ký xe, điện thoại di động, mắt Camera, đầu thu Camera, màn hình ti vi, tiền Việt Nam như đã nêu trên. Toàn bộ số ma túy mà D bán cho Thành, Sang cùng với số ma túy lực lượng Công an thu giữ tại giường ngủ, tủ quần áo trong phòng ngủ, nhà vệ sinh tầng 3, tủ bếp tại số nhà 58 Khu phố Trung H, phường Đình B, thị xã S, tỉnh Bắc Ninh đều là ma túy của D mua của một người phụ nữ không quen với mục đích để bán kiếm lời.

Về ngôi nhà số 58, Khu phố Trung H, phường Đình B, thị xã S, tỉnh Bắc Ninh, D khai nhận: Nhà có 02 (hai) nhà song song nhau, 01 (một) nhà thì D ngủ, nhà còn lại thì bố D là ông Nguyễn Sỹ T, cùng anh Nguyễn Sỹ Cường, sinh năm 1983 (là anh trai D) nhưng ông Toán vắng nhà do đi Bệnh viện từ trước đó (ngày 14/8/2019) khoảng 01 tháng và Nguyễn Sỹ Cường đi thi hành án phạt tù nên D một mình quản lý cả hai nhà và D ở cả hai nhà. Bị cáo thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội mua bán trái phép chất ma túy là đúng, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, NLQ4 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

Chiếc xe máy nhãn hiện Honda Dream BKS 99G1-133.23 là của anh. Năm 2018, anh cho em trai là Trịnh Quang Long mượn để đi lại. Sau được Long cho biết khoảng tháng 8/2019, Long có gửi chiếc xe máy nêu trên tại nhà D. Nay anh đề nghị xin lại chiếc xe.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Sỹ T vắng mặt, tuy nhiên trong quá trình điều tra ông trình bày: 02 ngôi nhà cơ quan điều tra khám xét do ông và D sử dụng. Thời gian gần đây ông đang điều trị sỏi mật tại Bệnh viện quân y 108 nên chỉ có mình D ở nhà. Việc D mua bán trái phép chất ma túy ông không biết. Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade BKS 99H1-186.12 do ông mua tại cửa hàng xe máy Tuấn Dung ở Phố Mới – Đình Bảng – Từ Sơn – Bắc Ninh. Số tiền bị thu giữ là 53.160.000đ là của ông gửi D giữ hộ. Ông đã nhận lại chiếc xe máy và số tiền nêu trên. Ông không có ý kiến gì, chỉ đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho D.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội giữ nguyên Cáo trạng truy tố; sau khi phân tích hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Nguyễn Sỹ D phạm tội “Mua bán trái phép chấp ma túy”.

Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Sỹ D 20 (hai mươi) năm tù. Phạt bổ sung bị cáo từ 10 đến 15 triệu đồng sung Ngân sách Nhà nước.

Về vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo D trình bày: Về tội danh, điều luật áp dụng nhất trí với luận tội của đại diện VKS. Bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải; có công tố giác tội phạm; có bố đẻ được tặng Huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng 3; hoàn cảnh gia đình khó khăn nên bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ và chỉ có một tình tiết tăng nặng, do vậy đề nghị HĐXX vận dụng Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xét xử bị cáo mức án dưới 20 năm tù.

Bị cáo D đồng ý với quan điểm của luật sư bào chữa, không bổ sung gì thêm, chỉ đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đối đáp với ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo, đại diện Viện kiểm sát không nhất trí với quan điểm của luật sư đề nghị xử bị cáo dưới 20 năm tù. Bởi lẽ, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, số lượng ma túy bị cáo phạm tội lớn. Do vậy, không có căn cứ để xử bị cáo dưới 20 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét chỗ ở, lời khai của người liên quan, người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, HĐXX nhận thấy có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 18h45’ ngày 14/8/2019, tại nhà ở của Nguyễn Sỹ D ở Khu phố Trung H, phường Đình B, thị xã S, tỉnh Bắc Ninh, Công an thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh phối hợp với Phòng Cảnh sát điều tra về ma túy Công an tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang Nguyễn Sỹ D có hành vi bán trái phép 0,0239 gam chất ma túy Heroine cho NLQ1 và 0,0289 gam chất ma truy Heroine cho NLQ2 cùng với giá 220.000đ. Khám xét nơi ở của D, Cơ quan điều tra còn thu giữ: 424,8619 gam ma túy Methamphetamine; 3,7446 gam ma túy Heroine; 22,2069 gam ma túy MDMA; 1,4960 gam ma túy Ketamine. Nguồn gốc số ma túy D mua của người đàn bà không quen biết về cất giấu để bán lẻ kiếm lời, nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện, thu giữ. Do vậy, có đủ căn cứ để xét xử Nguyễn Sỹ D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý chất ma túy. Ma túy còn là nguồn gốc dẫn tới nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương, do vậy cần xử lý nghiêm bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[2] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, HĐXX NHẬN THẤY

Về tình tiết tăng nặng: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai khi Thành và Sang hỏi mua ma túy thì Thành và Sang cùng đưa tiền cho bị cáo qua khe cửa và bị cáo đưa một lần cho Sang và Thành mỗi người một gói ma túy nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội từ 2 lần trở lên như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp. Bị cáo có 01 tiền án, lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; bị cáo có công tố giác tội phạm được Thủ trưởng cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh xác nhận và đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bố bị cáo là ông Nguyễn Sỹ T được Nhà nước tặng thưởng Huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng ba đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình. Mặc dù, bị cáo Nguyễn Sỹ D phạm tội với số lượng ma túy lớn, tính chất đặc biệt nghiêm trọng có thể xử phạt tù chung thân đối vơi bị cáo. Tuy nhiên, vận dụng Nghị quyết số 01/NQ- HĐTP ngày 15/3/2001 của HĐTPTANDTC thì theo quy định tại mục 3.3 trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng nặng hoặc có ít tình tiết tăng nặng hơn, đồng thời đánh giá tính chất giảm nhẹ và tính chất tăng nặng xét thấy có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nhẹ hơn mức án được hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 Mục 3 này như sau:

a… b. Xử phạt hai mươi năm tù nếu trọng lượng chất ma tuý thuộc điểm b tiểu mục 3.1 Mục 3 này:

HĐXX xét thấy, trong vụ án này, bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng nhưng bị cáo có 2 tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên nếu đối trừ đi thì bị cáo còn 1 tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 và một tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 51 BLHS. Hơn nữa, trong vụ án này bị cáo mới bán được 01 lượng nhỏ ma túy đã bị bắt, số ma túy còn lại đã bị thu giữ chưa phát tán ra ngoài xã hội. Vì vậy, cần mở lượng khoan hồng xử bị cáo mức hình phạt tù có thời hạn như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay cũng đủ giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội. Do bị cáo phạm tội với mục đích kiếm lời nên cần phạt bổ sung D một khoản tiền để sung Ngân sách Nhà nước.

Về vật chứng:

Số tiền 440.000đ thu giữ của D; 05 mắt camera; 01 đầu thu camera; 01 màn hình tivi sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định; 01 chiếc kéo kim loại; 02 mảnh giấy không còn giá trị sử dụng.

Trả lại bị cáo những vật chứng không liên quan đến phạm tội gồm 02 điện thoại di động và 01 CMND ghi tên Nguyễn Sĩ D nhưng tạm giữ 2 điện thoại di động để đảm bảo thi hành án.

Trả lại người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan NLQ4 01 xe máy nhãn hiệu Honda dream BKS 99G1-133.23 kèm 01 đăng ký xe.

Đối với 02 chiếc xe máy và số tiền 53.160.000đ, Cơ quan điều tra đã trả lại ông Toán và NLQ3 là phù hợp.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Sỹ D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự xử phạt: Nguyễn Sỹ D 20 (hai mươi) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/8/2019. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 (mười triệu) đồng sung Ngân sách Nhà nước.

Quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Sỹ D 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: Số tiền 440.000đ (gồm 02 tờ tiền mệnh giá 200.000đ lần lượt số seri là BY 18444818, PG 16526315 và 02 tờ tiền mệnh giá 20.000đ lần lượt có số seri AC 08604625, MH 16214063; 05 mắt camera; 01 đầu thu camera; 01 màn hình tivi nhãn hiệu TCL.

Trả lại bị cáo D: 01 điện thoại nokia mặt lưng màu xanh đã qua sử dụng; 01 điện thoại Iphone nắp lưng màu đỏ đã qua sử dụng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại bị cáo D 01 chứng minh nhân dân số 125133884 ghi tên Nguyễn Sĩ D.

Trả lại NLQ4: 01 chiếc xe máy Honda dream BKS 99G1-133.23 có SK: 0809AY346670, SM: A08E-1646654 đã qua sử dụng; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô BKS: 99G1-133.23 ghi tên Trịnh Quang Linh là chủ sở hữu.

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 01 hộp giấy đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định, niêm phong còn nguyên vẹn. Một mặt ghi chữ: K/gửi: Cơ quan CSĐT-Công an thị xã Từ Sơn. Mẫu vật còn lại sau giám định kèm theo KLGĐ số 584/KLGĐ-PC09, ghi ngày 18/8/2019 của phòng PC09; 01 chiếc kéo kim loại có chuôi màu vàng đen; 02 mảnh giấy có một mặt màu vàng, một mặt màu trắng.

(Vật chứng có đặc điểm theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 37/2020/BB-CTHA ngày 05/3/2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh).

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Sỹ D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

318
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2020/HS-ST ngày 18/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về