Bản án 28/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 28/2020/HS-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 05 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 27/2020/TLST- HS ngày 10 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1984; nơi sinh, nơi cú trú: Xóm 18, xã HH, huyện HH, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đạm, sinh năm 1951 và bà Đỗ Thị Mão, sinh năm 1951; có vợ là Trần Thanh Hiên, sinh năm 1997 và 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10-02-2020 đến ngày 16-02-2020 thì được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trần Thị Thủy- Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nam Định.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1988. Nơi cư trú: Xóm Xuân Hòa, xã HH1, huyện HH, tỉnh Nam Định.

2. Anh Chu Văn L1, sinh năm 1984. Nơi cư trú: Xóm 3, xã HĐ, huyện HH, tỉnh Nam Định.

- Người chứng kiến: Anh Vũ Ngọc B, sinh năm 1997. Nơi cư trú: Xóm 8, xã HQ, huyện HH, tỉnh Nam Định.

(Tại phiên tòa có mặt bị cáo, bà Thủy; vắng mặt anh L, anh L1, anh B)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 05 phút ngày 10-02-2020, Nguyễn Văn L đến quầy bán xổ số của Nguyễn Văn Đ ở xóm 7, xã Hải Quang, huyện Hải Hậu mua số lô. Đ bán cho L các số lô 67, 76 mỗi số 40 “điểm”, mỗi điểm 22.500đ, tổng số tiền là 1.800.000đ. Đ ghi số lô L mua vào tờ giấy A4 và ghi ra mảnh giấy nhỏ, gọi là “cáp đề”, ký rồi đưa cho L và nhận tiền. Tiếp đó, cũng với cách tính “số điểm” lô như trên, Đ bán cho anh Chu Văn L1 số lô 67 là 100 “điểm”, số lô 76 là 60 “điểm”, và các số đề: 74 là 20.000đ, số đề 44 là 300.000đ, số đề 33 là 200.000đ, số đề 67, 76 mỗi số đề 100.000đ. Tổng số tiền L1 mua số lô, số đề của Đ là 4.320.000đ; Đ ghi “cáp đề” gồm các số L1 vừa mua, ký tên và đưa cho L1. Đ thỏa thuận với L và L1: nếu kết quả xổ số kiến thiết Miền bắc mở thưởng ngày 10-02-2020 có 02 số cuối của tất cả các giải trùng với số lô đã ghi thì người mua thắng, Đ phải trả cho người mua mỗi “điểm” là 80.000đ; nếu 02 số cuối của giải đặc biệt trùng với số đề đã ghi thì người mua thắng, được cộng thêm 20% vào số tiền người mua bỏ ra để tính tiền thưởng theo tỷ lệ 1x70 lần; nếu số lô, số đề đã ghi không trùng với một trong các trường hợp trên thì người mua bị mất số tiền đã mua.

Khoảng 17 giờ 15 phút cùng ngày, khi Đ đang ghi số lô, số đề cho L1 vào tờ giấy A4 của mình và nhận số tiền 4.320.000đ thì bị Công an huyện Hải Hậu bắt quả tang, thu giữ của Đ số tiền 8.870.000đ, trong đó: 6.120.000đ tiền vừa bán số lô, số đề cho L và L1; 2.490.000đ là số tiền bán số lô, số đề cho 4 người đàn ông Đ không quen biết vào ngày 10-02-2020; số tiền 260.000đ là của Đ. Ngoài ra, công an huyện Hải Hậu còn thu giữ của L và L1 mỗi người một “cáp đề” có chữ ký của Nguyễn Văn Đ; thu giữ của Đ 01 tờ giấy A4 ghi các số lô, số đề.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn Đ thành khẩn khai báo, thực sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 27/CT-VKS-HH ngày 10-4-2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận đã thực hiện hành vi đúng như nội dung vụ án đã nêu ở trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyên Hai Hâu thực hành quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng như bản cáo trạng số 27/CT-VKS-HH ngày 10-4-2020 và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 9 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi kể từ ngày tuyên án; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng đã thu giữ, chưa xử lý trong quá trình điều tra theo quy định của pháp luật.

- Trong phần tranh luận, Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không tranh luận. Người bào chữa cho bị cáo trình bày ý kiến: Việc truy tố, xét xử bị cáo về tội “Đánh bạc” là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, xét bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thuộc hộ cận nghèo, bản thân đã có thời gian tham gia Quân đội và được Đoàn trưởng Đoàn đặc công Hải Quân 126 tặng “Giấy khen” và danh hiệu “Thanh niên 3 đỉnh cao Quyết thắng” nên đề nghị cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được cải tạo tại địa phương với mức thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

Nói lời sau cùng: Bị cáo ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hải Hậu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Hải Hậu lập ngày 10-02-2020; lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Trong ngày 10-02-2020, Nguyễn Văn Đ đã bán số lô, số đề cho Nguyễn Văn L và Chu Văn L1 và 04 người không quen biết, thu lời bất chính tổng số tiền 8.610.000 đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyên Hai Hâu đa truy tố đôi vơi bị cáo là có căn cứ.

[3] Xét hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm, gây mất trật tự trị an xã hội, gây bất bình trong nhân dân. Từ việc được, thua bạc có thể gây ra nhiều tệ nạn xã hội khác. Do đó, để góp phần đấu tranh, loại bỏ tệ nạn cờ bạc, cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Trong vụ án này, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bố đẻ bị cáo là người có công với cách mạng được tặng thưởng “Huy chương kháng chiến hạng nhất”; bản thân bị cáo tham gia quân đội được Đoàn trưởng Đoàn đặc công Hải Quân 126 tặng “Giấy khen” và danh hiệu “Thanh niên 3 đỉnh cao Quyết thắng” nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát giáo dục của gia đình và chính quyền địa phương như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay là phù hợp, đảm bảo mục đích của hình phạt.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định, gia đình thuộc diện kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Số tiền 8.610.000đ đã tịch thu là tiền bị cáo bán số lô, số đề cho Nguyễn Văn L, Chu Văn L1 và 04 người đàn ông không quen biết mà có nên xét cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Số tiền 260.000đ thu giữ của Nguyễn Văn Đ không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp.

- 02 mảnh giấy (cáp đề) ghi số lô, số đề có chữ ký của Nguyễn Văn Đ và 01 tờ giấy A4 không có giá trị sử dụng, là vật chứng đang được L trữ trong hồ sơ vụ án nên cần tiếp tục L hồ sơ vụ án.

[7] Nguyễn Văn L mua số lô của Đ với tổng số tiền 1.800.000đ; Chu Văn L1 mua số lô, số đề của Đ với tổng số tiền là 4.320.000đ, giữa L và L1 không có sự bàn bạc, thỏa thuận cùng nhau mua số lô, số đề của Đ nên hành vi nêu trên của L và L1 không đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Công an huyện Hải Hậu đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với L và L1 là phù hợp pháp luật.

[8] Đối với 04 người đàn ông mua số lô, số đề của Nguyễn Văn Đ vào ngày 10-02-2020 với tổng số tiền 2.490.000đ, do Nguyễn Văn Đ không biết tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ xác minh xử lý.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án (bị cáo đã bị tạm giữ từ ngày 10- 02-2020 đến ngày 16-02-2020).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Hải Hưng, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự: Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” của Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ theo “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú” số 04/LCCT- TA ngày 13 tháng 4 năm 2020.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 8.610.000đ (tám triệu sáu trăm mười nghìn đồng):

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn Đ số tiền 260.000đ (hai trăm sáu mươi nghìn đồng) (Các khoản tiền trên hiện đang được L giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu theo biên lai thu tiền số 07788 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu ngày 15-4-2020).

4. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án.

Thời hạn thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

346
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:28/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về