TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 28/2020/HS-PT NGÀY 13/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 531/TLPT-HS ngày 03/12/2019, đối với bị cáo Lương Đình T, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 76/2019/HSST ngày 21/10/2019 của Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo có kháng cáo:
Lương Đình T; giới tính: Nam; sinh năm: 1997 tại: tỉnh N; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khối T, thị trấn NĐ, huyện Đ, tỉnh N; Nơi cư trú: 347/12A/21 đường C, phường H, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Lương Đình M (sinh năm 1970) và bà Lê Thị Hồng V (sinh năm 1973); Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân:
+ Ngày 15/11/2014, bị Tòa án nhân dân huyện NĐ, tỉnh N xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo;
+ Ngày 09/7/2015, bị Tòa án nhân dân huyện NĐ, tỉnh N xử phạt 19 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 13/10/2016.
Bị bắt, tạm giữ từ ngày 04/4/2019 (có mặt).
- Bị hại: Bà Bùi Thị Thúy L, sinh năm 1971.
Địa chỉ: A12.01 chung cư HA, số 37 đường N, khu phố B, phường T, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 10 giờ ngày 19/3/2019, Lương Đình T đi vào chung cư HA, số 37 đường N, khu phố B, phường T, Quận 2, rồi vào block A đi thang máy lên tầng 15, Lương Đình T mở cửa thang bộ đi xuống tầng 14 dùng tay mở các cửa phòng. Sau đó, Lương Đình T tiếp tục đi thang bộ xuống tầng 12, vào căn hộ số A12.01 của bà Bùi Thị Thúy L thấy cửa đóng không kín, nên Lương Đình T dùng tay mở cửa đi vào trong căn hộ, đi vào phòng đầu tiên bên phải lấy 01 balô. Sau đó, Lương Đình T tiếp tục lấy 01 máy tính xách tay hiệu Asus, 01 Ipad mini 1, 01 máy nghe nhạc hiệu Ipod, 01 máy trò chơi điện tử cầm tay hiệu PSP, 01 điện thoại di động hiệu Samsung. Lương Đình T mở tủ quần áo lấy trộm 05 chai nước hoa hiệu Chanel loại 100ml và 01 chai nước hoa hiệu Chanel loại 50ml, rồi đi đến tủ gỗ gần giường lấy trộm 01 Ipad mini 1, 01 Ipad mini 4 và đi vào phòng khách lấy trộm 01 máy tính xách tay hiệu Dell, bỏ tất cả vào balô.
Ngoài ra, Lương Đình T đi vào phòng kế bên lấy trộm 01 bông tai có đính hạt tròn, 01 sợi dây chuyền có mặt đính những hạt hình tròn, 01 vòng đeo tay đính đá màu xanh và khoảng 3.000.000 đồng và tiếp tục lấy 01 nhẫn kim loại màu vàng bỏ vào túi xách có chữ Vuitton của Lương Đình T mang theo.
Sau đó, Lương Đình T đi thang bộ để tẩu thoát, trên đường tẩu thoát, Lương Đình T vứt lại một áo thun màu đen ở hành lang đối diện thang máy ở tầng 12. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, bà Bùi Thị Thúy L trở về căn hộ của mình, thấy cửa vẫn khóa nên mở cửa đi vào nhà. Khi vào đến phòng ngủ, bà Bùi Thị Thúy L phát hiện đồ đạc trong phòng bị lục tung, nghi ngờ có trộm nên kiểm tra phát hiện bị mất một số tài sản. Sau đó, bà Bùi Thị Thúy L đã đến Công an phường T, Quận 2 để trình báo vụ việc.
Đến khoảng 10 giờ ngày 03/4/2019, Lương Đình T tiếp tục đi vào khu vực chung cư HA để trộm cắp tài sản, bảo vệ chung cư nghi vấn nên báo Công an phường T phối hợp cùng Đội Cảnh sát hình sự Công an Quận 2 mời Lương Đình T về trụ sở để làm việc. Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 2, Lương Đình T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Theo các kết luận định giá tài sản số 202/HĐĐGTS-TCKH ngày 29/5/2019; 230/HĐĐGTS-TCKH ngày 01/7/2019, số 260/HĐĐGTS-TCKH ngày 26/8/2019 cùng của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 2 kết luận tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 42.527.480 đồng.
Những tài sản thu hồi được đã được Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 2 giao trả lại cho bị hại là bà Bùi Thị Thúy L. Còn lại một bông tai bằng kim loại có đính hạt ngọc trai, một ba lô màu xanh không rõ nhãn hiệu, năm chai nước hoa hiệu Chanel loại 100ml và 3.000.000 đồng chưa thu hồi.
Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 76/2019/HSST ngày 21/10/2019 của Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Xử phạt bị cáo Lương Đình T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/4/2019.
2 Ngoài ra, Bản án Hình sự sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 23/10/2019, bị cáo Lương Đình T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Lương Đình T trình bày: Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo là xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo đồng ý bồi thường số tiền chưa thu hồi được là 3.000.000 đồng cho bà Bùi Thị Thúy L.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu: Với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo Lương Đình T tại phiên tòa phúc thẩm, nhận thấy bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội và mức án phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo trình bày đồng ý bồi thường ngay cho bị hại số tiền 3.000.000 đồng, nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận. Tuy nhiên, bị cáo không bổ sung được tình tiết giảm nhẹ mới, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lương Đình T, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 2.
Bị cáo Lương Đình T không có ý kiến tranh luận và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định là hợp lệ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm.
[2] Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Lương Đình T tại phiên tòa cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định: Bị cáo Lương Đình T lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của bị hại Bùi Thị Thúy L, đã có hành vi lén lút đột nhập vào nhà của bị hại tại căn hộ số A12.01, chung cư HA, số 37 đường N, khu phố B, phường T, Quận 2 và thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, với tổng giá trị tài sản đã trộm cắp được là 42.527.480 đồng. Hành vi của bị cáo Lương Đình T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Như vậy, Tòa án nhân dân Quận 2 xử phạt bị cáo Lương Đình T theo tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đồng ý bồi thường ngay cho bị hại số tiền chưa thu hồi được là 3.000.000 đồng, nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Lương Đình T xin giảm nhẹ hình phạt và trình bày bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhưng không cung cấp thêm được tài liệu chứng cứ nào mới so với phiên tòa sơ thẩm, mặt khác, bị cáo lại có nhân thân xấu, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lương Đình T và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí: Bị cáo Lương Đình T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lương Đình T và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Lương Đình T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 04/4/2019.
Ghi nhận bị cáo Lương Đình T tự nguyện bồi thường số tiền 3.000.000 (ba triệu) đồng cho bà Bùi Thị Thúy L ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ này bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo chưa thi hành khoản tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất phát sinh do chậm thi hành án quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành.
Bị cáo Lương Đình T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 28/2020/HS-PT ngày 13/01/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 28/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/01/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về