Bản án 28/2019/ST-HNGĐ ngày 24/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN 2, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 28/2019/ST-HNGĐ NGÀY 24/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 24 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 392/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 9 năm 2019, về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 193/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trần Nguyên P, sinh năm: 1978

Địa chỉ thường trú: Đường A, phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. Minh.

Đa chỉ liên hệ: Đường A1, phường B1, Quận C1, Thành phố Hồ Chí

Bị đơn: Ông Huỳnh Minh K, sinh năm: 1970

Địa chỉ: Đường A2, phường B2, Quận C2, Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyên đơn bà Trần Nguyên P, bị đơn ông Huỳnh Minh K cùng có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và các biên bản hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Trần Nguyên P trình bày:

Bà P và ông Huỳnh Minh K chung sống với nhau từ năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 110/2010 quyển số 01/2010 ngày 26/8/2010. Ngay sau khi cưới ông bà chung sống hạnh phúc, đến khoảng đầu năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn vợ chồng, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm về nhiều vấn đề trong cuộc sống như vấn đề kinh tế gia đình, cách nuôi dạy con cái, vợ chồng không có sự quan tâm, chia sẻ lẫn nhau.

Đến thời điểm hiện tại, giữa bà và ông K còn rất nhiều mâu thuẫn vợ chồng không hòa giải được, nguyên nhân vẫn là do bất đồng quan điểm về nhiều vấn đề trong cuộc sống, không có sự quan tâm, chia sẻ lẫn nhau giữa vợ chồng, bà và ông K cũng đã nhiều lần cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng vẫn không hàn gắn được do mâu thuẫn đã quá trầm trọng.

Hiện nay bà xác định không còn tình cảm gì với ông K, cuộc sống riêng của bà cũng ổn định, do đó bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông K.

Trong quá trình chung sống bà và ông K có 01 con chung tên Huỳnh Phương N, sinh ngày: 15/01/2012. Bà P yêu cầu được nuôi con chung và yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 6.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật. Bản thân bà P có đủ điều kiện về kinh tế, thời gian cũng như sự hiểu biết để chăm sóc cho con, bé Phương N lại là con gái và mới có hơn bảy tuổi nên rất cần bàn tay chăm sóc của bà P. Bé Phương N ở với mẹ từ nhỏ đến lớn, đã quen sự chăm sóc của bà P, bé Phương N hiện nay đang học tại Quận 7, Trường Quốc tế Sao Việt rất gần chỗ ở của bà P và con nên tiện việc đưa đón con đi học. Phía ông K thì vì lý do công việc và còn phải đi học Cao học thì việc chăm sóc bé sẽ không đảm bảo bằng bà P.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà P và ông K cùng xác định tự thỏa thuận, do đó không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, các biên bản hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Huỳnh Minh K trình bày:

Ông K xác nhận lời trình bày của bà P về thời điểm chung sống và kết hôn, quan hệ hôn nhân, mâu thuẫn vợ chồng và con chung. Đến thời điểm hiện tại, giữa ông K và bà P có nhiều vấn đề mâu thuẫn không giải quyết được do quan điểm khác nhau, bà P tránh mặt không nói chuyện với ông K hoặc khi ông K hỏi chuyện gia đình, kinh tế thì bà P thường xuyên không trả lời hoặc gạt đi không muốn nói chuyện, ông K và bà P không có sự yêu thương, quan tâm, chia sẽ lẫn nhau giữa vợ chồng. Ông K và bà P còn mâu thuẫn trong cách nuôi dạy con, hầu như việc gì cũng làm theo ý kiến của bà P, bà P không tôn trọng ý kiến của ông K trong cách nuôi dạy con. Ông K nhận thấy tình cảm vợ chồng đã rạn nứt, không có sự chia sẻ, quan tâm lẫn nhau, tuy nhiên ông xác định hiện nay tình cảm của ông và bà P vẫn còn và ông còn thương con vì vậy ông không đồng ý ly hôn với bà P.

Trong quá trình chung sống ông và bà P có 01 con chung tên Huỳnh Phương N, sinh ngày: 15/01/2012. Ông K yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu bà P phải cấp dưỡng nuôi con. Công việc của ông K thường chỉ bận trong giờ hành chính cũng là giờ đi học của con nên sẽ có nhiều thời gian dành cho con hơn, về điều kiện kinh tế thì nếu cần thiết ông K sẽ bán nhà của mẹ ruột tại Đường A2, phường B2, Quận C2, Thành phố Hồ Chí Minh và mua một căn nhà nhỏ hơn để lấy tiền chênh lệch nuôi con. Ngoài ra, ông K có tính cách điềm đạm, sẽ dễ dàng hơn trong việc nuôi dạy con.

Trường hợp bà P được quyền nuôi con thì ông sẽ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 6.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà, các đương sự vẫn giữ nguyên ý kiến và yêu cầu đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến, quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Trong thời gian chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn: Bà Trần Nguyên P được ly hôn với ông Huỳnh Minh K. Giao con chung tên Huỳnh Phương N, sinh ngày: 15/01/2012 cho bà P nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Ghi nhận việc bà P, ông K thỏa thuận ông K cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 6.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật. Tài sản chung và nợ chung bà P và ông K tự thỏa thuận, do đó đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

Nguyên đơn bà Trần Nguyên P khởi kiện xin ly hôn với ông Huỳnh Minh K, bà P và ông K cùng có yêu cầu nuôi con chung, do đó quan hệ tranh chấp trong vụ án này là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn ông Huỳnh Minh K cư trú tại: Đường A2, phường B2, Quận C2, Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về yêu câu cua đương sư:

Nguyên đơn bà Trần Nguyên P xin ly hôn với ông Huỳnh Minh K, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Huỳnh Phương N và yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 6.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

Hi đồng xét xử xét thấy: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày của các bên đương sự, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định bà P và ông K tự nguyện chung sống và kết hôn với nhau từ năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 110/2010, quyển số 01/2010 ngày 26/08/2010. Do đo, quan hê hôn nhân giưa bà P và ông K là hôn nhân hợp pháp và đươc phap luât bảo vệ.

Căn cư vào lơi khai tại bản tự khai , lời trình bày trong các biên bản hòa giải và tai phiên toa hôm nay cua bà Trần Nguyên P, ông Huỳnh Minh K, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định giữa bà P, ông K có phát sinh mâu thuẫn vợ chồng từ năm 2012, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm về nhiều vấn đề trong cuộc sống, trong đó có vấn đề quan điểm sống, về kinh tế gia đình và việc nuôi dạy con cái, mặt khác cũng không có sự yêu thương, quan tâm, chia sẻ lẫn nhau giữa vợ chồng. Bà P và ông K không thể cảm thông, chia sẻ cho nhau những khó khăn trong cuộc sống, cả hai không tìm được tiếng nói chung, khi ông K cố gắng nói chuyện, trao đổi với bà P thì bà P do có quan điểm khác nên cũng không nói chuyện, trao đổi lại với ông K, không có sự tôn trọng nhất định đối với ông K, vợ chồng ngày càng xa cách nhau. Sự việc kéo dài dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, bà P và ông K cũng đã nhiều lần cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng đến thời điểm hiện tại vẫn không hàn gắn được.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, mặc dù Tòa án đa giải thích , động viên bà Trần Nguyên P bỏ qua mọi mâu thuẫn để đoan tu , hàn gắn tình cảm vợ chồng , xây dựng hạnh phúc gia đình, cùng nuôi dạy con chung nhưng bà P không đồng ý quay về đoàn tụ mà cương quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông K.

Hi đồng xét xử xét thấy hôn nhân là sự tự nguyện của cả hai bên, cùng nhau xây dựng hạnh phúc, yêu thương, tôn trọng, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, cùng nuôi dạy con cái. Tuy nhiên, giữa ông K, bà P đã phát sinh mâu thuẫn từ năm 2012 cho đến nay vẫn chưa tìm được tiếng nói chung, cuộc sống hôn nhân nặng nề, giữa bà P và ông K không có sự yêu thương, quan tâm, chia sẻ, tôn trọng, chăm sóc lẫn nhau. Như vậy, cả bà P và ông K đã vi phạm nghiêm trọng về nghĩa vụ của vợ chồng quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều này cho thây mâu thuân vơ chông giữa ông K và bà P là trâm trọng, tình cảm yêu thương lẫn nhau giữa vơ và chông đa hêt , đời sông chung không thê keo dai , mục đích của hôn nhân kh ông đat đươc . Do đó, căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, việc bà Trần Nguyên P yêu cầu xin được ly hôn với ông Huỳnh Minh K là có cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Về con chung: Căn cứ lời trình bày của các đương sự và căn cứ Giấy khai sinh số 59/2012, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 22/02/2012, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định trẻ Huỳnh Phương N, sinh ngày 15/01/2012 là con chung của bà Trần Nguyên P và ông Huỳnh Minh K.

Bà Trần Nguyên P và ông Huỳnh Minh K cùng có yêu cầu được nuôi trẻ Huỳnh Phương N. Xét nguyện vọng được nuôi trẻ Phương N của ông K, bà P là chính đáng, ông K có điều kiện về kinh tế, thời gian để nuôi dạy con, có tính cách điềm đạm, kiên nhẫn trong việc giáo dục cho con. Tuy nhiên, xét thấy trẻ Phương N từ nhỏ đã ở với bà P, đã quen với sự chăm sóc, giáo dục của bà P và đến nay vẫn phát triển tốt, trẻ Phương N lại là con gái, hiện nay đã bảy tuổi nên việc chăm sóc, giáo dục cho bé khi trưởng thành rất cần có bàn tay của người mẹ, để trẻ Phương N có thể ổn định về tâm sinh lý, phát triển đầy đủ về mọi mặt. Mặt khác, phía bà P cũng có đủ các điều kiện về thời gian, về kinh tế cũng như sự hiểu biết để nuôi dạy con tốt nhất. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của trẻ Phương N, căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Trần Nguyên P, giao trẻ Huỳnh Phương N, sinh ngày: 15/01/2012 cho bà P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Ghi nhận việc ông Huỳnh Minh K đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 6.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Các bên tự thi hành vào ngày 05 dương lịch hàng tháng, bắt đầu thi hành ngay sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Trần Nguyên P, ông Huỳnh Minh K cùng xác định tự thỏa thuận về tài sản chung, nợ chung, do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên xem xét chấp nhận toàn bộ.

[3] Về án phí và quyền kháng cáo:

Về án phí sơ thẩm: Do bà Trần Nguyên P là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Do ông K và bà P đã thỏa thuận được với nhau về mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng trước khi mở phiên tòa, căn cứ điểm a, b khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì án phí cấp dưỡng nuôi con ông Huỳnh Minh K phải chịu bằng 50% mức án phí dân sự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch.

Về quyền kháng cáo: Bà Trần Nguyên P, ông Huỳnh Minh K có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điêu 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

- Căn cứ Điều 19, 56, 81, 82, 83, 84, 110, 116, 117, 118, 119 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2015);

- Căn cứ Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.

- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Căn cứ Luật thi hành án dân sự;

Xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn bà Trần Nguyên P:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Nguyên P ly hôn với ông Huỳnh Minh K.

Quan hệ hôn nhân giữa bà Trần Nguyên P và ông Huỳnh Minh K theo Giấy chứng nhận kết hôn số 110/2010, quyển số 01/2010 do Ủy ban nhân dân Ủy ban nhân dân phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 26/08/2010 chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

2. Về việc nuôi con, cấp dưỡng nuôi con:

Giao con chung tên Huỳnh Phương N, sinh ngày: 15/01/2012 cho bà Trần Nguyên P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Ông Huỳnh Minh K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật, các bên tự giao nhận vào ngày 05 dương lịch hàng tháng, bắt đầu thi hành ngay khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con; có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con Về tài sản chung và nợ chung: Bà Trần Nguyên P và ông Huỳnh Minh K cùng xác định tự thỏa thuận về tài sản chung và nợ chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Các bên thi hành dưới sự giám sát của Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

3. Về án phí:

Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng bà Trần Nguyên P phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà P đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0016765 do Chi cu c Thi hành án dân sự Quận 2 lập ngày 04/9/2019. Án phí cấp dưỡng nuôi con ông Huỳnh Minh K phải chịu là 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng). Bà P đã nộp đủ tiền án phí, ông K chưa nộp tiền án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

4. Về quyền kháng cáo: Bà Trần Nguyên P, ông Huỳnh Minh K có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/ST-HNGĐ ngày 24/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:28/2019/ST-HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 2 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về