Bản án 28/2019/HS-ST ngày 30/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN - TP. ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 28/2019/HS-ST NGÀY 30/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Ủy ban nhân dân phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Khả Hồ N (Cu B), sinh ngày 04/5/1990, tại TP. Đà Nẵng Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 64, phường M, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Khả S và bà Hồ Thị Thu Ng (cả hai đều còn sống); gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; bị cáo chưa có vợ con;

Tiền án:

+ Ngày 29/9/2010, bị TAND quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (BA số: 40/2010/HSST);

+ Ngày 22/11/2011, bị TAND quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (BA số: 32/2011/HSST);

+ Ngày 01/02/2013, bị TAND quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (BA số: 06/2013/HSST);

+ Ngày 19/12/2015, bị TAND quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (BA số: 44/2015/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 16/8/2018.

Tiền sự: Ngày 06/01/2009, bị UBND TP. Đà Nẵng đưa vào cơ sở giáo dục 18 tháng với hành vi “xâm phạm tài sản, gây rối trật tự công cộng” (Quyết định số: 115/UBND).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/3/2019; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Võ Đức T, sinh năm 1994 Trú tại: Thôn P, xã V, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị; vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Hồ Thị Thu Ng, sinh năm 1962 Trú tại: Tổ 64, phường M, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng; vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 25/02/2019, Lê Khả Hồ N điều khiển xe mô tô hiệu Sirius, màu đen trắng BKS: 43H1-089.07 đến khu vực ngã ba đường A20 - A 21, phường M, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng để trộm cắp tài sản. Tại đây, N để xe mô tô bên lề đường rồi đi bộ đến số nhà 50 đường A 21, phường M, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng, N thấy phòng trọ của anh Võ Đức T sinh năm 1994; trú tại Thôn P, xã V, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị không khóa cửa nên vào lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu đen xám đang để trên đầu giường của anh T. Sau đó, N tiếp tục lục túi các quần jean trong phòng của anh T để tìm tài sản thì bị anh T phát hiện, N bỏ chạy và trốn tại gầm cầu Trần Thị L, TP. Đà Nẵng. Đến ngày 01/3/2019, Công an phường M, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng yêu cầu N đến làm việc và N đã khai nhận hành vi trộm cắp như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ của: Lê Khả Hồ N 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu đen xám; Võ Đức T: 01 Xe mô tô hiệu Sirius, màu đen trắng BKS: 43H1-089.07; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đỏ; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu xanh (của N bỏ lại hiện trường).

Theo Bản kết luận định giá tài sản số: 11 ngày 19/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự quận Ngũ Hành Sơn, kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu đen xám, có trị giá: 3.150.000 đồng.

Qua điều tra, Lê Khả Hồ N đã khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 30/CT-VKS-NHS ngày 13/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Lê Khả Hồ N về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Khả Hồ N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Lê Khả Hồ N mức án từ 24 đến 30 tháng tù.

Đối với bà Hồ Thị Thu Ng, sinh năm 1962; trú tại tổ 64, phường M, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng là chủ sở hữu của xe mô tô BKS: 43H1-089.07, nhưng không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng không xử lý là có căn cứ.

Về vật chứng:

- Ngày 03/4/2019, Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe mô tô hiệu Sirius, màu đen trắng BKS: 43H1- 089.07 cho bà Hồ Thị Thu Ng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu đen xám cho anh Võ Đức T là có căn cứ.

- Đề nghị trả lại: 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đỏ và 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu xanh cho Lê Khả Hồ N, do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Về dân sự: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu đen xám, Lê Khả Hồ N trộm của anh Võ Đức T đã được trả lại cho anh T, anh T không có ý kiến gì thêm nên không đề cập đến.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Tại phiên tòa vắng mặt người bị hại Võ Đức T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Hồ Thị Thu Ng, Hội đồng xét xử xét thấy, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt, trong hồ sơ vụ án đã có lời khai. Do đó, sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.

[1.2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đảm bảo theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Tại phiên tòa bị cáo Lê Khả Hồ N khai nhận hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 25/02/2019, tại phòng trọ nhà số 50 đường A 21, phường M, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng Lê Khả Hồ N đã có hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu đen xám trị giá 3.150.000 đồng của anh Võ Đức T.

Hành vi trên của bị cáo Lê Khả Hồ N bị Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng số 30/CT-VKS-NHS ngày 13/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo Lê Khả Hồ N thì thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã có 04 tiền án về tội trộm cắp tài sản vừa chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 16/8/2018, chưa được xóa án tích, ngày 25/02/2019 tại phòng trọ nhà số 50 đường A 21, phường M, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng bị cáo đã trộm 01 điện thoại di động Iphone 6, màu đen xám trị giá 3.150.000 đồng của anh Võ Đức T. Hành vi của bị cáo thể hiện sự liều lĩnh, xem thường pháp luật, đã xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất lòng tin đối với mọi người xung quanh, làm mất an ninh trật tự tại địa phương nên cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[2.3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ của bị cáo Lê Khả Hồ N thì thấy:

Bị cáo là người có tuổi đời còn trẻ, có nhân thân xấu vào ngày 06/01/2009, bị UBND TP. Đà Nẵng đưa vào cơ sở giáo dục 18 tháng với hành vi “xâm phạm tài sản, gây rối trật tự công cộng” theo Quyết định số: 115/UBND và có 04 tiền án về tội trộm cắp tài sản bị Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn xử phạt tại các bản án:

Ngày 29/9/2010, bị TAND quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số: 40/2010/HSST;

Ngày 22/11/2011, bị TAND quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (BA số: 32/2011/HSST);

Ngày 01/02/2013, bị TAND quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số: 06/2013/HSST;

Ngày 19/12/2015, bị TAND quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số: 44/2015/HSST chưa được xóa án tích bị cáo lại tiếp tục phạm tội. Lẽ ra bị cáo phải là người nhận thức được pháp luật qua các lần chấp hành hình phạt, từ đó phấn đấu lao động để phụ giúp gia đình và đóng góp cho xã hội nhưng bị cáo là người thiếu ý chí rèn luyện, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài một cách dễ dàng và nhanh nhất, muốn thỏa mãn mục đích cá nhân bằng thành quả lao động của người khác nên đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh Võ Đức T. Mặc dù bị cáo có 05 lần trộm cắp tài sản nhưng chỉ vì mục đích tiêu xài cá nhân, không vì mục đích nuôi sống bản thân do đó Hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội có tính chất chuyên nghiệp đối với bị cáo.

Song trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, cha, mẹ và ông bà ngoại bị cáo là người có công với cách mạng được nhà nước tặng huân, huy chương kháng chiến, cha bị cáo lại thường xuyên đau ốm, đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một khi lượng hình.

Đối với bà Hồ Thị Thu Ng, sinh năm 1962; trú tại tổ 64, phường M, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng là chủ sở hữu của xe mô tô BKS: 43H1-089.07, nhưng không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng không xử lý là có căn cứ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về vật chứng:

- Ngày 03/4/2019 Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe mô tô hiệu Sirius, màu đen trắng BKS: 43H1- 089.07 cho bà Hồ Thị Thu Ng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu đen xám cho anh Võ Đức T là có căn cứ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đỏ và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh của Lê Khả Hồ N, do không liên quan đến hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho bị cáo N.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Anh Võ Đức T đã được trả lại tài sản và không có ý kiến gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Hội đồng xét xử xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn tại phiên tòa về căn cứ các điều luật áp dụng, cũng như đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là có cơ sở nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi lượng hình.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo N phải chịu 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[1] Tuyên bố: Bị cáo cáo Lê Khả Hồ N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo cáo Lê Khả Hồ N 24 ( hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam, ngày 01/3/2019.

[2] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tuyên trả cho Lê Khả Hồ N 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đỏ và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh.

Tất cả vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/5/2019.

[3] Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135 khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lê Khả Hồ N phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 30/5/2019.

Riêng người bị hại anh Võ Đức T, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Hồ Thị Thu Ng vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HS-ST ngày 30/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:28/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về