Bản án 28/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HỒNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

 BẢN ÁN 28/2019/HS-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Lâm Thanh Đ, sinh ngày 19-4-2001 tại tỉnh Đồng Tháp; Nơi cư trú: Ấp D, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lâm Đức L, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1970; Có 05 anh chị em; Tiền án: Không tính, nhưng nhân thân không tốt, vào ngày 30-7-2019 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đang chấp hành án vào ngày 10-9-2019 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp, Tiền sự: Không; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Trần Văn X, sinh năm 1996 (vắng mặt).

Cư trú: Ấp D, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Thị N, sinh năm 1970 (có mặt);

2. Nguyễn Thị Thúy E, sinh năm 1978 (vắng mặt).

Cùng cư trú: Ấp D, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ ngày 04-9-2019 bị cáo Lâm Thanh Đ đi bộ đến nhà anh Trần Văn X tại ấp D, xã T, huyện T để rủ anh X chiều đi đá bóng nhưng không gặp anh X. Lúc này bị cáo nhìn thấy trên đầu tủ thờ có 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO F3, màu xám - vàng nên nảy sinh ý định lấy trộm, sau đó bị cáo đi đến tủ thờ lấy điện thoại giấu vào trong quần đang mặc và đi về nhà cất giấu điện thoại trong vali đựng đồ trong phòng của bị cáo. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày anh X phát hiện điện thoại bị mất và nghi ngờ bị cáo lấy trộm nên đến nhà hỏi bị cáo có lấy trộm điện thoại không, bị cáo trả lời không có, sau đó anh X trình báo sự việc bị mất trộm điện thoại đến Công an xã T, huyện T.

Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, chị Nguyễn Thị Thúy E (hàng xóm của bị cáo) đến nhà hỏi bị cáo có lấy trộm điện thoại của anh X không thì trả lại, lúc này bị cáo thừa nhận là có lấy trộm điện thoại của anh X, sau đó chị Thúy E trình báo Công an xã T, huyện T và Công an đã thu giữ điện thoại trong vali đựng đồ trong phòng của bị cáo.

Vật chứng của vụ án thu giữ: 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO F3, màu xám - vàng và 01 sim điện thoại số: 0376.764001 của anh Trần Văn X. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã trả lại cho anh Trần Văn X quản lý.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 71/KL-HĐĐG ngày 13-9-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Hồng kết luận: Điện thoại nhãn hiệu OPPO F3, màu xám – vàng; trị giá 4.900.000đồng và sim điện thoại số 0376.764001; trị giá 100.000đồng. Tổng giá trị tài sản là 5.000.000đồng.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Lâm Thanh Đ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Trần Văn X không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại Cáo trạng số 28/CT-VKSTH ngày 28-10-2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp đã truy tố Lâm Thanh Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lâm Thanh Đ thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung Cáo trạng truy tố. Đồng thời bị cáo Đạt khai vào ngày 30-7-2019 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 06 (Sáu) tháng tù về tội trộm cắp tài sản và hiện nay bị cáo đang chấp hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp.

Tại phần luận tội, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lâm Thanh Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lâm Thanh Đ đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Từ những phân tích trên Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo Lâm Thanh Đ mức án từ 09 (Chín) đến 12 (Mười hai) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Trần Văn X không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết.

Về vật chứng: Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO F3, màu xám - vàng và 01 sim điện thoại số 0376.764001 của anh Trần Văn X. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Hồng đã trả lại cho anh Trần Văn X quản lý, nên không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

Bị cáo không tham gia tranh luận.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và hứa sẽ không tái phạm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Hồng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng, Kiểm sát viên trong quá trình tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Từ khi khởi tố vụ án cho đến tại phiên tòa sơ thẩm những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung Cáo trạng truy tố, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy qua tranh tụng đã đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 04-9-2019 bị cáo Lâm Thanh Đ đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO F3, màu xám - vàng và 01 sim điện thoại số 0376.764001 của anh Trần Văn X có tổng giá trị là 5.000.000đồng.

[3] Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Lâm Thanh Đ là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi. Xuất phát từ lòng tham lam của bản thân, lười biến lao động, bị cáo đã có hành vi lén lút nhằm để chiếm đoạt tài sản của anh Trần Văn X 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO F3, màu xám - vàng và 01 sim điện thoại số 0376.764001. Lời thú nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người bị hại, các chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án. Từ những phân tích trên, đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Điều luật trên quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Trước khi phạm tội lần này thì vào ngày 30-7-2019 bị cáo Lâm Thanh Đ đã bị Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, trong thời gian chờ đi chấp hành thì bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu trên.

[4] Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của anh Trần Văn X, gây hoang mang, lo lắng trong cộng đồng dân cư trên địa bàn xã T, huyện T (nơi xảy ra) nói riêng và tỉnh Đồng Tháp nói chung. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, nhằm để giáo dục cho bị cáo trở thành người tốt và có ích cho xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và qua tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lâm Thanh Đ đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và bị hại cũng đã nhận lại tài sản đã bị mất trộm, không yêu cầu bồi thường, không yêu cầu xử lý hình sự, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Trước khi phạm tội lần này bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, nên cần phải tổng hợp hình phạt của hai bản án đối với bị cáo theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tuy không có, nhưng nhân thân của bị cáo không tốt vào ngày 30-7-2019 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng xử phạt 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Không tính tiền án và tái phạm tội đối với bị cáo Lâm Thanh Đ, do lúc phạm tội của bản án trước bị cáo chưa thành niên dưới 18 tuổi là phù hợp với Điều 107 Bộ luật Hình sự.

Từ các nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy nên xem xét giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo, nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật nước ta.

[5] Về hình phạt bổ sung: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa xét thấy bản thân bị cáo làm thuê, thu nhập thấp nên không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Do không có yêu cầu trong vụ án nên không xem xét giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO F3, màu xám - vàng và 01 sim điện thoại số 0376.764001 của anh Trần Văn X. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Hồng đã trả lại cho anh Trần Văn X quản lý, nên không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

[8] Về án phí: Bị cáo Lâm Thanh Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Xét thấy phát biểu luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, các điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lâm Thanh Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lâm Thanh Đ 09 (Chín) tháng tù, cộng với 06 (sáu) tháng tù của bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2019/HS-ST ngày 30-7-2019 của Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 bản án bị cáo Lâm Thanh Đ phải chấp hành là 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án ngày 10-9-2019.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lâm Thanh Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Bị cáo, có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 15-11-2019). Riêng bị hại anh Trần Văn X vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

285
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:28/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hồng - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về