Bản án 28/2019/HS-ST ngày 15/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 28/2019/HS-ST NGÀY 15/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 9 năm 2019; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

Đặng Văn T, sinh ngày 26-01-1966; tại xã N, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã N, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Đăng K và bà Triệu Thị D; vợ Triệu Thị T; con: Có ba người con, con lớn sinh năm 1989, con nhỏ sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không có tiền án, tiền sự; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện B từ ngày 07/6/2019 đến nay. Có mặt.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Dương Thời L, sinh năm 1991.

Thôn N, xã V, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

+ Người làm chứng: Anh Dương Hữu M, sinh năm 1988.

Đa chỉ: Thôn P. xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ 30 phút ngày 07/6/2019, tại phòng điều trị số 03 Trung tâm Y tế huyện B, tỉnh Lạng Sơn, bị cáo Đặng Văn T, sinh năm 1966, trú tại Thôn N, xã N, huyện B, tỉnh Lạng Sơn có hành vi bán trái phép 01 (một) gói nhỏ chất ma túy Heroine cho anh Dương Thời L, sinh năm 1991, trú tại Thôn N, xã V, huyện B, tỉnh Lạng Sơn tiến hành kiểm tra phát hiện trên người bị cáo Đặng Văn T có 02 (hai) gói nhỏ chất ma túy Heroine. Qua giám định chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo Đặng Văn T là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 1,338 gam (đã trừ bì); Chất bột màu trắng thu giữ của anh Dương Thời L là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,008 gam (đã trừ bì).

Tại bản kết luận giám định số 216/KL-PC 09 ngày 09/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:

- Chất bột màu trắng thu giữ của Đặng Văn T là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 1,338 gam (đã trừ bì);

- Chất bột màu trắng thu giữ của Dương Thời L là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,008 gam (đã trừ bì).

Với kết quả như trên, ngày 10/6/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện B ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra Lệnh tạm giam đối với Đặng Văn T để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

Bản Cáo trạng số: 26/CT-VKS ngày 23/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Đặng Văn T về Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên quan điểm như trong bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét:

- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; tuyên bố bị cáo Đặng Văn T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, đề nghị mức án từ 02 đến 03 năm tù giam.

Đề nghị không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 2, Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu huỷ số ma túy Heroine thu giữ của bị cáo Đặng Văn T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Dương Thời L; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Đặng Văn T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà bị cáo Đặng Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân. Lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng và cũng phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, cụ thể: Khoảng đầu tháng 4/2019, bị cáo Đặng Văn T đến Trung tâm Y tế huyện B để điều trị bệnh lao và nằm tại phòng điều trị số 03, trong thời gian bị cáo Thăng nằm điều trị bệnh thì ngày 04/6/2019 có Dương Thời L cũng vào Trung tâm Y tế để điều trị ho và ở cùng phòng điều trị số 03 với bị cáo Đặng Văn T. Chiều ngày 06/6/2019 trong lúc Dương Thời L đang sử dụng chất ma túy heroine ở phòng trong, bị cáo Đặng Văn T có nghe thấy tiếng bật lửa và biết Dương Thời L đang sử dụng ma túy, thấy vậy bị cáo Thăng hỏi “mày cũng chơi ma túy à”, Dương Thời L trả lời “vâng cháu có chơi” và nói tiếp “chú có nghiện không sao gầy thế”. Bị cáo Đặng Văn T nói “có nghiện sắp chết”, Dương Thời L liền hỏi tiếp “có không” ý là có ma túy bán không, nghe vậy bị cáo Đặng Văn T nói “khi nào đi lấy được thì mới có”, Dương Thời L liền nói “khi nào có để lại cho một ít”. Bị cáo Đặng Văn T đồng ý, đến chiều ngày 06/6/2019 bị cáo Đặng Văn T bắt xe khách về nhà con rể tên là Dương Hữu M, sinh năm 1988, ở Thôn P. xã T, huyện B, do nhà con rể tối hôm đó có cúng ma nên bị cáo Đặng Văn T ở lại ăn cơm và ngủ lại đêm hôm đó.

[2] Đến sáng ngày 07/6/2019 Dương Hữu M lấy xe mô tô của gia đình chở bố vợ và thầy cúng đi theo đường tỉnh lộ 243 về hướng xã Nhất Hòa, huyện B để đưa thầy cúng về nhà, khi đến chợ xã Nhất Hòa thì bị cáo Đặng Văn T xuống xe đợi, còn Dương Hữu M tiếp tục đưa thầy cúng về nhà. Trong lúc chờ con rể quay lại đón, bị cáo Đặng Văn T đi vào trong chợ và gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi không quen biết, chỉ biết người này cũng nghiện ma túy. Bị cáo Đặng Văn T có hỏi người đàn ông này là “có không” (ý nói là có ma túy bán không) thì người đàn ông trả lời “có”, sau đó có hỏi bị cáo Đặng Văn T có bao nhiêu tiền, thì bị cáo Thăng trả lời có 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng). Người đàn ông nói tiếp “có lấy hết không”, bị cáo Thăng trả lời “lấy hết” rồi bị cáo Đặng Văn T đưa cho người đàn ông đó số tiền 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng) thì người đàn ông đó đưa cho bị cáo Thăng 02 (hai) gói nhỏ chất ma túy được gói trong giấy kẻ màu trắng. Bị cáo Đặng Văn T cầm 01 (một) gói ma túy cất vào túi áo ngực phía trước bên trái đang mặc trên người, gói còn lại bị cáo Thăng cất vào túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi đứng ở khu vực chợ đợi Dương Hữu M. Khoảng 30 phút sau Dương Hữu M quay về đến và chở bị cáo Đặng Văn T đi thẳng ra Trung tâm Y tế huyện B để làm thủ tục ra viện. Khi vừa vào đến phòng điều trị số 03 thì Dương Thời L đã hỏi “có thuốc chưa” (ý nói là ma túy), bị cáo Thăng trả lời “có một ít rồi” thấy vậy Dương Thời L nói tiếp “để cho em hai trăm” bị cáo Thăng đồng ý. Nói xong Dương Thời L đưa cho bị cáo Đặng Văn T 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng), bao gồm 01 (một) tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng), 02 (hai) tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng). Bị cáo Đặng Văn T cầm tiền rồi cất vào túi áo ngực phía trước bên trái đang mặc trên người đồng thời cũng lấy từ trong túi áo này ra 01 (một) gói nhỏ chất ma túy rồi chia ra một phần gói vào giấy bạc đưa cho Dương Thời L, số ma túy còn lại bị cáo Đặng Văn T cất vào túi áo ngực bên trái đang mặc trên người, Dương Thời L cầm ma túy vừa mua được đưa lên để sử dụng thì bị lực lượng Công an huyện B bắt quả tang.

[3] Như vậy có đủ căn cứ kết luận bị cáo Đặng Văn T đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Đặng Văn T gây ra là nguy hiểm cho xã hội, được pháp luật hình sự coi là tội phạm, xâm phạm đến hoạt động quản lý độc quyền của Nhà nước về chất gây nghiện ma túy Heroine; gián tiếp xâm phạm đến lĩnh vực trật tự an toàn xã hội; như vậy cần phải xử bị cáo một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Về nhân thân: Bị cáo là người khỏe mạnh, có thể chất phát triển bình thường, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy Heroine là vi phạm pháp luật; do muốn có tiền để sử dụng ma túy thỏa mãn cơn nghiện của bản thân bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không có. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo là người có nhân thân tốt, tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo; bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng đặc biệt khó khăn của huyện B, tỉnh Lạng Sơn, theo quy định của pháp luật cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo tốt.

[6] Đối với người đàn ông đã bán ma túy Heroine cho bị cáo Đăng Văn Thăng do bị cáo Đặng Văn T không biết họ tên, tuổi, địa chỉ. Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra, xác minh để xử lý. Như vậy là đúng quy định của pháp luật.

[7] Đối với Dương Thời L là đối tượng nghiện ma tuý đã có hành vi mua trái phép chất ma tuý với bị cáo Đặng Văn T mục đích đem về sử dụng, khi bị bắt đã thành khẩn khai báo hợp tác với cơ quan điều tra, xét mức độ vi phạm chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện B đã ra quyết định xử lý vi phạm hành chính đồng thời lập hồ sơ người nghiện chuyển giao cho Công an xã nơi đối tượng cư trú để theo dõi, quản lý, giáo dục. Như vậy là đúng quy định của pháp luật.

[8] Về tang vật của vụ án:

[9] 01 (một) phong bì thư đựng chất ma túy Heroine đã được niêm phong theo quy định, trên đó có ghi “tang vật thu giữ của Đặng Văn T”; 01 (một) phong bì thư đựng chất ma túy Heroine đã được niêm phong theo quy định, trên đó có ghi “tang vật thu giữ của Dương Thời L”. Đây là ma túy Heroine vật cấm lưu hành cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

[10] 01 (một) phong bì thư được dán kín, mặt trước có dòng chữ viết tay “tang vật thu giữ (tiền) của Đặng Văn T”, mặt trước tại vị trí niêm phong có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự. Bên trong phong bì có số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) (gồm một tờ tiền Việt Nam mệnh giá 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng); hai tờ tiền Việt Nam mệnh giá 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng). Đây là số tiền do bán trái phép chất ma túy; cần tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[11] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Đặng Văn T là người nghiện chất ma túy, không có nghề nghiệp; nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[12] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo. Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

[13] Bị cáo không có ý kiến tranh luận, đồng ý với luận tội của Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng, bị cáo Đặng Văn T xin với Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về đoàn tụ cùng gia đình và hòa nhập với xã hội.

[14] Những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, đề nghị.

[15] Trong quá trình điều tra, truy tố; Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[16] Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật. Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

I. Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đặng Văn T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Đặng Văn T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/6/2019.

II. Về tang vật của vụ án:

Áp dụng điểm a, điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư đựng chất ma túy Heroine đã được niêm phong theo quy định, trên đó có ghi “tang vật thu giữ của Đặng Văn T”; 01 (một) phong bì thư đựng chất ma túy Heroine đã được niêm phong theo quy định, trên đó có ghi “tang vật thu giữ của Dương Thời L”.

Tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng), đựng trong 01 (một) phong bì thư được dán kín, mặt trước có dòng chữ viết tay “tang vật thu giữ (tiền) của Đặng Văn T”, mặt trước tại vị trí niêm phong có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự; (gồm một tờ tiền Việt Nam mệnh giá 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng); hai tờ tiền Việt Nam mệnh giá 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng).

(Vật chứng và số tiền trên hiện đang được lưu giữ tại kho của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B).

III. Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Buộc bị cáo Đặng Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Tòa báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HS-ST ngày 15/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về