Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 27/06/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 28/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 27 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 48/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2019, về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Mai H - Sinh năm: 1983.

Trú quán: Thôn Th, xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Ái Th, sinh năm 1973.

Trú tại: thôn A, xã Th, huyện K, tỉnh Thái Bình.

(Chị H và anh Th có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn chị Bùi Thị Mai H có yêu cầu khởi kiện và trình bày như sau:

Chị và anh Th tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Th , huyện K, tỉnh Thái Bình vào ngày 13/02/2007. Sau kết hôn vợ chồng anh chị sinh sống tại gia đình bố mẹ chồng tại thôn A, xã Th, huyện K, tỉnh Thái Bình. Đến năm 2010 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, chị đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Th ngoại tình và có con với người phụ nữ khác. Gia đình đã nhiều lần khuyên can và hòa giải để vợ chồng đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con cái nhưng anh Th không hề thay đổi mà còn đưa con riêng về nhà công khai khiến mâu thuẫn vợ chồng càng thêm căng thẳng. Đến nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị làm đơn xin ly hôn anh Thống.

Về con chung: Chị và anh Thống có 02 con chung tên là Nguyễn Thanh Tâm, sinh ngày 29/02/2008 và Nguyễn Thanh Huyền, sinh ngày 26/7/2011. Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung, yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con 2.000.000đ/con/tháng đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn là anh Nguyễn Ái Th trình bày: Về hoàn cảnh kết hôn và điều kiện kết hôn đúng như chị H trình bày. Anh cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do không hợp nhau. Nay tình cảm không còn, chị H xin ly hôn thì anh đồng ý.

Về con chung: Nếu chị H cương quyết nuôi cả 02 con thì anh đồng ý để cho chị H nuôi dưỡng cả 02 con chung, anh tự nguyện cấp dưỡng cho mỗi con là 2.000.000đ/tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Anh chị mua được 01 thửa đất số 277, tờ bản đồ số 03, địa chỉ thôn Quang Trung, xã Vũ Vân, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ngoài ra anh đi làm ăn có gửi tiền về, chị H làm ăn gom góp tiền mua được 01 miếng đất và dựng được 02 gian nhà tạm để gia đình ổn định cuộc sống. Anh Th đưa ra hướng giải quyết với chị H : Anh sẽ đưa cho chị H 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng), chị H sang tên toàn bộ tài sản cho anh, nhưng anh vẫn để cho chị H và các con vẫn quản lý và ở ngôi nhà đó anh không thắc mắc gì. Còn nếu chị H đưa một người khác về đó sinh sống thì anh sẽ tiếp quản lại toàn bộ tài sản đó và không cho chị H về đó ở nữa để không làm ảnh hưởng đến tâm lý cũng như cuộc sống của các con. Hoặc là chị H đưa cho anh 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng) để anh giữ, nếu sau khi ly hôn mà chị H đưa người thứ ba về đó sinh sống, anh sẽ đón các con về sống cùng anh, số tiền đó anh sẽ bù vào để lo chỗ ở mới cho các con.

Nguyện vọng về tài sản như trên anh Th đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo pháp luật. Anh Th xin vắng mặt trong các phiên làm việc và phiên tòa.

Ngày 17/5/2019 Tòa án đã ra thông báo yêu cầu anh Th nộp tạm ứng án phí về yêu cầu chia tài sản nhưng anh Th không nộp.

* Kết quả thu thập chứng cứ của Tòa án:

- Qua xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Th ngày 04/5/2019 cán bộ đại diện cho Đoàn thể, đại diện chính quyền cung cấp cho biết: Anh Th và chị H kết hôn tại UBND xã Th vào ngày 13/02/2007. Sau kết hôn chị H sinh sống ở xã V , huyện V , tỉnh Thái Bình, ngày lễ, tết, giỗ chạp thì có về nhà anh Th ở xã Th . Anh Th đi làm xây dựng xa nhà, chị H không sinh sống ở địa phương nên nguyên nhân mâu thuẫn cụ thể địa phương không nắm được. Đến nay chị H xin ly hôn, anh Th cũng đã đồng ý ly hôn nên đề nghị Tòa án căn cứ vào nguyện vọng của các bên để giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: Như chị H và anh Th đã khai. Nếu Tòa án giải quyết cho ly hôn thì nên giao cả hai con cho chị H nuôi dưỡng. Địa phương không thấy anh Th khai sinh cho con nào khác ngoài 02 chung với chị H , cũng không thấy anh Th đưa vợ con nào khác về nhà.

Hộ khẩu của anh Th và hai con hiện nay vẫn đăng ký thường trú tại xã Th, huyện K , tỉnh Thái Bình. Hộ khẩu của chị H đã chuyển về thôn Th , xã V , huyện V , tỉnh Thái Bình.

- Về nguyện vọng của các cháu Nguyễn Thanh T , và Nguyễn Thanh H đều muốn được ở với chị H nếu bố mẹ các cháu ly hôn.

- Chị H có đơn trình bày và xin xác nhận về việc chị đang nuôi cả hai con, các con đang sinh sống và học tập tại xã V . Đơn đã được Công an xã V V, huyện V , tỉnh Thái Bình xác nhận: Chị Bùi Thị Mai H , sinh năm 1983 là người có hộ khẩu thường trú tại địa phương, có hai con Nguyễn Thanh T , sinh năm 2008 và Nguyễn Thanh H , sinh năm 2011 đang ở cùng và chị H trực tiếp nuôi dưỡng là đúng.

* Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật:

Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn thực hiện chưa đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị H xin ly hôn, anh Th cũng xác định tình cảm không còn, do vậy đề nghị Tòa án giải quyết cho chị H được ly hôn với anh Th theo quy định tại điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Giao cả hai con là Nguyễn Thanh T, sinh ngày 29/02/2008 và Nguyễn Thanh H, sinh ngày 26/7/2011 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh Th phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho các con.

Về tài sản chung: Do chị H không yêu cầu chia tài sản, anh Th không nộp tạm ứng án phí chia tài sản nên không đặt ra giải quyết trong vụ án này.

Về án phí: chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, hội đồng xét xử nhận định:

[I] Về pháp luật tố tụng:

[1] Nguyên đơn là chị Bùi Thị Mai H có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Bị đơn là anh Nguyễn Ái Th có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Th , huyện K , tỉnh Thái Bình, do vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Chị H và Anh Th đều có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, nên Tòa án xét xử vắng mặt cả nguyên đơn và bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Th , huyện K , tỉnh Thái Bình và thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ tình trạng hôn nhân của nguyên đơn, bị đơn vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình tham gia phiên tòa là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[II] Về pháp luật nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân của chị H và anh Th có giấy chứng nhận kết hôn, đó là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống của vợ chồng không được hạnh phúc do không tin tưởng nhau trong quan hệ vợ chồng, gây nên mâu thuẫn kéo dài nhiều năm. Đến nay chị H và anh Th đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ được nữa, chị H xin ly hôn và anh Th cũng chấp nhận ly hôn. Như vậy chứng tỏ hôn nhân giữa chị H và anh Th đã lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần giải quyết cho chị H được ly hôn với anh Th là phù hợp với quy định tại điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2] Về quan hệ con chung:

Chị H và anh Th có 02 con chung tên là Nguyễn Thanh T , sinh ngày 29/02/2008 và Nguyễn Thanh H , sinh ngày 26/7/2011. Chị H và anh Th đã thỏa thuận chị trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung, anh Th cấp dưỡng nuôi con 2.000.000đ/con/tháng đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Như vậy giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con là phù hợp với quy định tại điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình, nên được chấp nhận.

[3] Về tài sản chung:

Chị H không yêu cầu giải quyết về tài sản chung. Anh Th có yêu cầu giải quyết tài sản chung nhưng không nộp tạm ứng án phí, nên Tòa án không giải quyết yêu cầu của anh Th . Do vậy Tòa án không đặt ra giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.

[4] Về án phí:

Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, anh Th phải chịu án phí về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ vào Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 và điểm b khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Xử cho chị Bùi Thị Mai H được ly hôn anh Nguyễn Ái Th .

2. Về con chung:

- Giao cho chị H trực tiếp nuôi 02 con chung tên là Nguyễn Thanh T , sinh ngày 29/02/2008 và Nguyễn Thanh H , sinh ngày 26/7/2011. Th phải cấp dưỡng nuôi con 2.000.000đ/con/tháng đến khi các con đủ 18 tuổi.

- Anh Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết trong vụ án này.

4. Về án phí:

Chị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm chị H đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0001281 ngày 28/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Chị H đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Th phải chịu 150.000đ(một trăm năm mươi nghìn đồng) án phí về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

5. Về quyền kháng cáo:

Án xử công khai, chị H anh Th vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

337
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 27/06/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:28/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về