Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 23/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM MỸ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 28/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 63/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 45/2019/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Huỳnh Thị Cẩm Th, sinh năm: 1992 Nghề nghiệp: Công nhân; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Hộ khẩu thường trú: Ấp 3, xã T, huyện C, tỉnh Đ (vắng mặt).

- Bị đơn: anh Nguyễn Sơn L, sinh năm: 1987 Nghề nghiệp: Công nhân; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Tin lành Hộ khẩu thường trú: Ấp 3, xã T, huyện C, tỉnh Đ (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn đề ngày 23/11/2018; các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Huỳnh Thị Cẩm Th trình bày: Chị và anh Nguyễn Sơn L kết hôn vào tháng 4/2012, đây là hôn nhân lần đầu của cả 02 anh chị. Sau khi kết hôn hai vợ chồng thuê nhà trọ để ở. Trong quá trình chung sống thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, do chị đi làm công nhân thường xuyên tăng ca nên anh L hay ghen tuông, nghi ngờ chị có quan hệ ngoại tình với người đàn ông khác, từ nguyên nhân trên dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Từ tháng 8/2016 anh chị đã có thời gian sống ly thân rồi sau đó hàn gắn lại được một thời gian ngắn nhưng vẫn xảy ra mâu thuẫn, nên từ giữa năm 2017 vợ chồng không còn tình cảm với nhau nữa nên anh chị đã sống ly thân cho đến nay.

Về con chung: chị Th xác định vợ chồng có người con chung là cháu Nguyễn Thị Thúy K, sinh ngày 27/11/2012, hiện cháu K đang do chị trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Thị Thúy K, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Th có đơn xin xét xử vắng mặt.

Các tài liệu chứng cứ nguyên đơn giao nộp gồm: Chứng minh nhân dân (photo chứng thực); Sổ hộ khẩu (photo chứng thực); Giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); Giấy khai sinh con chung (bản sao); Bảng lương thể hiện thu nhập cá nhân; Bản tự khai.

- Đối với bị đơn là anh Nguyễn Sơn L: Do anh L cố tình vắng mặt trong các buổi làm việc mà tòa án triệu tập nên không có lời trình bày của anh L.

Các tài liệu, chứng cứ bị đơn giao nộp gồm: không.

Các tài liệu, chứng cứ Tòa án thu thập được: Biên bản xác minh nơi cư trú của bị đơn; Thẻ bảo hiểm của bị đơn; Sổ hộ khẩu của bị đơn; Biên bản lấy lời khai của bà Châu Thị T; CMND bà Châu Thị T.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: Về quan hệ pháp luật, việc thu thập chứng cứ, việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng và của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho chị Th ly hôn anh L; về con chung: giao cháu Nguyễn Thị Thúy K cho chị Th tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng; tạm miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh L; về tài sản chung và nợ chung: không ai yêu cầu nên không xem xét; chị Th chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào lời khai của các đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền và thủ tục tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp: chị Huỳnh Thị Cẩm Th khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn anh Nguyễn Sơn L và yêu cầu nuôi con, nên đây là vụ án về "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 của BLTTDS.

- Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn anh Nguyễn Sơn L có nơi cư trú tại: tổ 3, ấp 3, xã T, huyện C, tỉnh Đ theo biên bản xác minh 11/7/2019 (BL 31); căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ.

- Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các giấy triệu tập cho anh L nhưng anh L cố tình không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Vì vậy, khi thông báo các phiên họp kiểm ta việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như phiên tòa, thì Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản cho anh L. Ngày 16/8/2019, Tòa án đã đưa vụ án trên ra xét xử nhưng hoãn phiên tòa vì do anh L vắng mặt lần thứ nhất. Đồng thời nguyên đơn chị Huỳnh Thị Cẩm Th cũng có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, căn cứ theo quy định tại Điều 227, 228, 238 BLTTDS, tại phiên tòa hôm nay, tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là phù hợp.

[2] Về việc áp dụng pháp luật: Chị Th và anh L kết hôn với nhau từ năm 2012, đến giữa năm 2017 xảy ra mâu thuẫn trầm trọng nên anh chị không còn chung sống với nhau nữa, dẫn đến việc chị Th xin ly hôn. Vì vậy, Tòa án áp dụng Luật HN&GĐ năm 2014 để giải quyết ly hôn cho anh chị là phù hợp.

[3] Về NỘI DUNG VỤ ÁN - Về quan hệ hôn nhân: chị Huỳnh Thị Cẩm Th và anh Nguyễn Sơn L tự nguyện tìm hiểu, đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 38 ngày 18/4/2012 (BL 01), nên hôn nhân giữa chị Th và anh L là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Tuy nhiên, theo trình bày của chị Th thì cuộc sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, do chị làm công nhân thường xuyên phải làm tăng ca, nhưng anh L không tin tưởng chị cho rằng chị đi chơi với người đàn ông khác chứ không phải đi làm và thường ghen tuông vô cớ, từ nguyên nhân trên dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Từ tháng 8/2016 anh chị đã có thời gian sống ly thân rồi sau đó hàn gắn lại được một thời gian ngắn nhưng vẫn xảy ra mâu thuẫn, nên từ giữa năm 2017 vợ chồng không còn tình cảm với nhau nữa nên anh chị đã sống ly thân cho đến nay, vì vậy chị Th yêu cầu được ly hôn anh L. Mặc dù, không có lời khai của anh L tuy nhiên xét mâu thuẫn vợ chồng là có cơ sở. Bởi lẽ, theo biên bản lấy lời khai của bà Châu Thị T, sinh năm: 1962 là mẹ anh L (BL 30) mà Tòa án đã thu thập được thì bà T trình bày: Do anh L phát hiện ra chị Th có phát sinh mối quan hệ tình cảm với người đàn ông khác nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, từ năm 2017 thì anh L về sinh sống cùng gia đình vợ chồng bà cho đến nay, chị Th yêu cầu ly hôn thì anh L cũng đồng ý, nhưng vì lý do công việc nên anh không thể đến Tòa án để làm việc được. Xét thấy: căn cứ vào trình bày của đương sự và kết quả xác minh tình trạng hôn nhân cho thấy hôn nhân giữa chị Th và anh L đã thực sự mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung đã không còn tồn tại trên thực tế. Theo quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình (sau đây viết tắt là Luật HN&GĐ) thì “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. 2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”; như vậy, đối chiếu với quy định này cho thấy chị Th và anh L đã không làm tròn nghĩa vụ vợ chồng. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật HN&GĐ thì “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”, Hội đồng xét xử quyết định cho chị Th ly hôn anh L là phù hợp.

- Về yêu cầu quyền được trực tiếp nuôi con chung: chị Th yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Thúy K, sinh ngày 26/11/2012 và chị Th không yêu cầu anh L cấp dưỡng; xét thấy cháu Nguyễn Thị Thúy K hiện tại đang sống cùng với chị Th và cháu còn nhỏ và là con gái, bản thân chị Th cũng có nơi ở, việc làm và thu nhập ổn định, do đó cần chấp nhận giao cháu Nguyễn Thị Thúy K cho chị Th tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp quy định pháp luật, đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt của cháu K.

- Về cấp dưỡng nuôi con: chị Th không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung nên không đặt ra xem xét.

- Về tài sản chung và nợ chung: do không ai yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí: căn cứ khoản 4 Điều 147 của BLTTDS thì Th phải chịu án phí sơ thẩm.

* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về thủ tục tố tụng và đường lối giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: cho chị Huỳnh Thị Cẩm Th ly hôn anh Nguyễn Sơn L.

2. Về con chung: giao cháu Nguyễn Thị Thúy K, sinh ngày 26/11/2012 cho chị Huỳnh Thị Cẩm Th được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: không ai yêu cầu nên không xem xét. Sau khi ly hôn quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung vẫn được pháp luật bảo đảm cho đến khi đủ 18 tuổi.

4. Về tài sản chung và nợ chung: do không ai yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

5. Về án phí: Chị Huỳnh Thị Cẩm Th phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà chị Th đã nộp tại biên lai thu tiền số 004702 ngày 27/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Mỹ; chị Th đã nộp đủ án phí.

Nguyên đơn và bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 23/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:28/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Mỹ - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về