Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 20/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM TÂN, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 28/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 20 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 45/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 03 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hồ Thị Kim C, sinh năm 1987 (có mặt).

Địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

Bị đơn: Anh Lê Long Đ, sinh năm 1988 (có mặt).

Địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 24/01/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Hồ Thị Kim C trình bày:

Chị và anh Lê Long Đ sống chung với nhau từ năm 2006 đến năm 2008 đã đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận. Quá trình sống chung, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, anh Đ do đam mê cờ bạc nên không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ, con mà còn thường xuyên chửi bới, gây gỗ với vợ, con. Từ khi vợ chồng không còn chung sống với nhau nữa, anh Đ đã có người phụ nữ khác nên vợ chồng không còn, liên lạc với nhau và không quan tâm nhau. Nay, chị không thể sống chung với anh Đ được nữa, tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Trong quá trình sống chung chị và anh Đ có 02 con chung là Lê Hồ Hoàng L, sinh ngày 24/8/2007 và Lê Hồ Hoàng H, sinh ngày 22/12/2011, khi ly hôn, chị có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các con chung và yêu cầu anh Đ cấp dưỡng tiền nuôi con chung mỗi tháng 3.000.000đồng cho hai con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Lê Long Đ đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Đ không đến Tòa án để làm việc và cung cấp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Tại phiên tòa anh Đ trình bày: Anh thống nhất với chị C về thời gian chung sống với nhau và đăng ký kết hôn. Trong thời gian sống chung với nhau thì có những mâu thuẫn như chị C đã trình bày, mặc dù trong thời gian qua, anh có sống chung với người phụ nữ khác nhưng chỉ là tạm bợ nên anh không muốn ly hôn. Anh mong chị C cho anh thêm một cơ hội để đoàn tụ gia đình. Về con chung, nếu ly hôn anh đồng ý giao các con chung cho chị C nuôi dưỡng, anh không đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân tham gia phiên tòa:

- Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân đã tiến hành thụ lý, chuẩn bị xét xử và xét xử vụ án đúng trình tự thủ tục luật định. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng khác, các đương sự đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ để xác định chị Hồ Thị Kim C và anh Lê Long Đ tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn năm 2008 nên đây là hôn nhân hợp pháp; Trong thời gian sống chung thì anh, chị có nhiều mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cải vã nhau. Tại Biên bản xác minh ngày 16/7/2019 thể hiện cuộc sống chung giữa chị C và anh Đ thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, anh Đ và chị C không còn chung sống với nhau nữa, anh Đ do đam mê cờ bạc nên không quan tâm đến vợ con, nên tình trạng hôn nhân giữa chị C và anh Đ đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị C; về con chung giao cháu Lê Hồ Hoàng L, sinh ngày 24/8/2007 và Lê Hồ Hoàng H, sinh ngày 22/12/2011 cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng, buộc anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 3.000.000đồng cho hai con; về tài sản chung, nợ chung các đương sự không yêu cầu nên không đề nghị xem xét; về án phí, đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về quan hệ pháp luật có tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: HĐXX thấy rằng đây là tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xét yêu cầu của nguyên đơn:

[1]. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Hồ Thị Kim C và anh Lê Long Đ tự nguyện tìm hiểu, sống chung và đăng ký kết hôn vào ngày 13/10/2008 tại UBND xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận đúng theo quy định nên đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự thì trong cuộc sống chung vợ chồng giữa chị C và anh Đ thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Đ không lo làm ăn mà còn đam mê cờ bạc, không quan tâm chăm sóc vợ con mà còn thường xuyên chửi bới, đánh đập vợ, con; hiện nay anh Đ đang có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác nên không còn chung sống với chị C. Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình thì “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện công việc chung trong gia đình” nhưng anh Đ đã có hành vi bạo lực gia đình và ngoại tình. Tại Biên bản xác minh ngày 16/7/2019 thể hiện cuộc sống chung giữa chị C và anh Đ thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, anh Đ đam mê cờ bạc, không quan tâm vợ, con, chị C và anh Đ không còn chung sống với nhau nữa nên đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Với những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị C và anh Đ đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị C.

[2] Về con chung: Chị C và anh Đ có 02 con chung là Lê Hồ Hoàng L, sinh ngày 24/8/2007 và Lê Hồ Hoàng H, sinh ngày 22/12/2011, khi ly hôn, chị C có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc, nuôi các con chung và yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con vì từ trước đến nay anh Đ không chăm sóc con chung và hiện nay các con chung đang ở cùng chị C.

Tại phiên tòa, anh Đ đồng ý giao con chung cho chị C trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng; tại Biên bản lấy lời khai ngày 13/4/2019 và 23/7/2019 cháu L và cháu H đều có nguyện vọng được sống chung với mẹ vì cháu thấy rằng mẹ chăm sóc cho cháu tốt hơn, ba không chăm sóc cháu mà thường xuyên đánh đập cháu nên các cháu rất sợ ba. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ nguyện vọng của các con chung và ý kiến của các đương sự, giao cháu Lê Hồ Hoàng L, sinh ngày 24/8/2007 và Lê Hồ Hoàng H, sinh ngày 22/12/2011cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Chị C yêu cầu anh Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con mỗi tháng là 1.500.000đồng cho mỗi con chung, hai cháu là 3.000.000đồng. Hội đồng xét xử thấy rằng, hiện nay chị C đang làm việc tại trạm xăng dầu nên thu nhập ổn định mỗi tháng 7.000.000đồng, tuy nhiên để đảm bảo mức sống tối thiểu và sự phát triển bình thường cho các cháu thì với thu nhập như trên của chị C sẽ gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình thì: “người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Hiện nay anh Đ đang làm nghề xây dựng, thu nhập bình quân mỗi tháng là 10.000.000đồng nên có khả năng để cấp dưỡng cho con. Vì vậy, yêu cầu của chị C là có cơ sở cần được chấp nhận.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hồ Thị Kim C.

- Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Hồ Thị Kim C và anh Lê Long Đ.

- Về con chung: Giao cháu Lê Hồ Hoàng L, sinh ngày 24/8/2007 và Lê Hồ Hoàng H, sinh ngày 22/12/2011 cho chị Hồ Thị Kim C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Anh Lê Long Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi hai con chung mỗi tháng là 3.000.000đồng (mỗi con chung 1.500.000đồng) cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Anh Lê Long Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của các con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

2/ Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3/ Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

4/ Về án phí: Chị Hồ Thị Kim C phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0024675 ngày 04/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Tân.

Anh Lê Long Đ phải chịu 300.000đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Án xử công khai, đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5/ Án có hiệu lực theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại cácĐiều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 20/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:28/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Tân - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về