Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 19/04/2019 về ly hôn giữa chị M và anh T

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 28/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ M VÀ ANH T

Ngày 19 tháng 4 năm 2019 tại phòng xử án, Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 16/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 224/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22/3/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Bùi Ngọc Nữ Xuân M, cư trú tại: Số nhà 25, ấp A, xã B, huyện L, tỉnh Vĩnh Long, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Anh Đặng Anh T, cư trú tai: số nhà 25, Khóm B, Phường C, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 24 tháng 12 năm 2018 nguyên đơn chị Bùi Ngọc Nữ Xuân M trình bày: Chị và anh Đặng Anh T đăng ký kết hôn năm 2017, có đăng ký kết hôn, chung sống đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm sống va đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2018 đến nay, nên chị M yêu cầu xin được ly hôn với anh T. Chị M và anh T chung sống với nhau có 01 người con chung tên là Đăng Bảo Anh T, sinh ngày 25/7/2017, chị M yêu cầu được nuôi con khi ly hôn, yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng, vì anh T làm lương mỗi tháng 6.000.000 đồng, anh T làm kỹ thuật bảo hành điện thoại cho Công ty.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Đặng Anh T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Bùi Ngọc Nữ Xuân M và anh Đặng Anh T kết hôn năm 2017, có đăng ký kết hôn theo đúng trình tự quy định của pháp luật. Sống chung với nhau một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, từ đó chị và anh T đã sống ly thân, nên chị M có đơn yêu cầu xin được ly hôn với anh T, anh T có Hộ khẩu thường trú tại thành phố V. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Long, Tòa án nhân dân thành phố V thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, trong quá trình giải quyết vụ án, anh T đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần vắng mặt không có lý do, chị M thì có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định.

[2] Theo chứng cứ do chị M cung cấp trong hồ sơ, chị M và anh T có đăng ký kết hôn, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số: 12/2017 ngày 03/3/2017. Thời gian chung sống thì phát sinh mâu thuẫn và không tự giải quyết được, cuộc sống không hạnh phúc dẫn đến việc chị M và anh T sống ly thân, anh T thì được triệu tập nhiều lần không đến tham gia giải quyết, từ đó cho thấy anh không có thiện chí muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng, mâu thuẫn đã thật sự trầm trọng, nên xét thấy việc chị M yêu cầu được ly hôn với anh T là có cơ sở chấp nhận, đúng với quy định tại các Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị M và anh T chung sống với nhau có 01 người con chung tên là Đăng Bảo Anh T, sinh ngày 25/7/2017, chị M yêu cầu được nuôi con chung khi ly hôn, yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

Xét thấy, từ khi ly thân với nhau cháu T là do chị M nuôi dưỡng và cháu T sinh năm 2017 còn rất nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ, anh T thì triệu tập nhiều lần không đến tham gia giải quyết vụ án, nên để cháu T cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng là hợp lý, đúng với quy định tại Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng, hiện nay cháu T còn nhỏ, chi phí để nuôi cháu hàng ngày là thật sự cần thiết, nên việc chị M yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con là hợp lý. Tuy nhiên, mức cấp dưỡng mà chị M yêu cầu so với quy định là không có cơ sở chấp nhận, cần buộc anh T cấp dưỡng theo quy định của pháp luật là đúng với quy định tại Điều 82 và Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình

[4] Về tài sản chung; nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết, nên không phải xem xét.

[5] Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong vụ án hôn nhân và gia đình nguyên đơn phải chịu tiền án phí, nên chị M phải chịu án phí số tiền phải nộp là 300.000 đồng và theo điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, người có nghĩa vụ cấp dưỡng định kỳ hoặc một lần theo quyết định của Tòa án phải chịu án phí theo mức án phí không có giá ngạch, nên anh T phải chịu án phí số tiền phải nộp là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoan 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82; 83 và Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Áp dụng điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số : 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân:

- Cho chị Bùi Ngọc Nữ Xuân M ly hôn anh Đăng Anh T.

2. Về nuôi con chung:

- Giao cháu Đặng Bảo Anh T, sinh ngày 25/7/2017 cho chị M có trách nhiệm nuôi dưỡng.

- Anh Đặng Anh T đóng góp nuôi con với chi Bùi Ngọc Nữ Xuân M số tiền 695.000đ/tháng (Sáu trăm chín mươi lăm ngàn đồng). Thời gian cấp dưỡng từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi cháu Đặng Bảo Anh T thành niên (đủ 18 tuổi).

Không ai được quyền ngăn cản việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung đối với anh T, nhưng nếu anh T lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị M có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con đối với anh T.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết, vì đương sự không yêu cầu.

4. Về án phí sơ thẩm:

- Buộc chị Bùi Ngọc Nữ Xuân M phải nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí sơ thẩm về xin ly hôn, trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), theo biên lai thu tiền số 0004255 ngày 07/01/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V.

- Buộc anh Đăng Anh T phải nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con.

5. Về quyền kháng cáo : Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 19/04/2019 về ly hôn giữa chị M và anh T

Số hiệu:28/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về