Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM KHÊ - TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 28/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 17 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cẩm Khê - tỉnh Phú Thọ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 122/2020/TLST-HNGĐ ngày 20/5/2020 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2020/QĐXX-ST ngày 24 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị P- sinh năm 2000 (có mặt)

Địa chỉ: thôn T, xã C, huyện N, tỉnh Thanh Hóa

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn C- sinh năm 1988

Địa chỉ: khu V, Thị trấn C, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt lần thứ hai không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 13/5/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Trần Thị P trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn C tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn S (nay là thị trấn C), huyện C, tỉnh Phú Thọ ngày 29/6/2018. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống với bố mẹ đẻ anh C tại khu 9, thị trấn S (nay là khu V, Thị trấn C), huyện C, tỉnh Phú Thọ một thời gian ngắn sau đó vợ chồng đi làm ăn tại thành phố Hà Nội. Qúa trình chung sống vợ chồng hòa thuận được một thời gian thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng nhau về quan điểm sống, lối sống không hợp nhau nên thường xuyên cãi nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhiều lần nhưng vợ chồng vẫn không thể khắc phục được. Từ ngày 15/4/2020 vợ chồng đã sống ly thân mỗi người một nơi, chị P đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở huyện N, tỉnh Thanh Hóa sinh sống từ đó đến nay, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Nay chị P xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C để ổn định cuộc sống.

Tại bản tự khai ngày 20/5/2020 và tại bản tự khai bổ sung ngày 07/9/2020 và quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Văn C trình bày: Về thời gian kết hôn, quá trình chung sống, nguyên nhân mâu thuẫn, thời điểm vợ chồng sống ly thân của vợ chồng như chị P trình bày. Nay chị P xin ly hôn anh đồng ý vì cố níu kéo cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai bên.

-VÒ con chung: Hai bên đều trình bày vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Kim N, sinh ngày 03/4/2018 (hiện nay đang ở với chị P). Ly hôn chị P xin được trực tiếp nuôi con chung, anh C nhất trí. Chị P không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung; Về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản; Về công sức: Hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, đều thực hiện đúng quy định pháp luật không vi phạm gì và đề nghị:

- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án Xử:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chị P được ly hôn anh C

+ Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Ngọc Kim N, sinh ngày 03/4/2018 cho chị Trần Thị P trực tiếp nuôi dưỡng. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị P không yêu cầu.

+ Về tài sản chung; Về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản; Về công sức: Do các đương sự không yêu cầu, nên không đề cập giải quyết.

+ Về án phí: Chị P phải chịu toàn bộ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đánh giá đầy đủ và toàn diện chứng cứ. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Trần Thị P có hộ khẩu thường trú tại huyện N, tỉnh Thanh Hóa, tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn có yêu cầu đối với bị đơn anh Nguyễn Văn C, có nơi cư trú ở khu V, thị trấn C, huyện C, tỉnh Phú Thọ. Chị P yêu cầu Tòa án giải quyết việc “ly hôn, nuôi con chung”. Vì vậy quan hệ pháp luật giải quyết là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ quy định tại khoản 1 điều 28, 35,39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh Nguyễn Văn C đã nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất không có lý do, căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa lần thứ nhất. Tòa án đã tiến hành tống đạt Quyết định hoãn phiên tòa và giấy báo phiên tòa lần thứ hai trực tiếp cho anh C theo quy định của pháp luật, nhưng tại phiên tòa hôm nay anh C đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh C theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ Luật tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị P anh C bảo đảm các quy định về điều kiện kết hôn và không thuộc trường hợp cấm kết hôn theo quy định cấm kết hôn của Luật hôn nhân và gia đình nên đó là hôn nhân hợp pháp. Thực trạng chung sống của vợ chồng và qua xác minh tại địa P cho thấy giữa chị P, anh C có xảy ra mâu thuẫn bất đồng, mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên hòa giải nhiều lần, nhưng vợ chồng không khắc phục được mâu thuẫn, chị P đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại huyện N, tỉnh Thanh Hóa sinh sống, vợ chồng hiện tại đã sống ly thân mỗi người một nơi từ ngày 15/4/2020 đến nay nên việc chị P yêu cầu xin ly hôn, anh C nhất trí là có căn cứ, cần tôn trọng sự thỏa thuận của các đương sự.

[3]. Về con chung: Hiện nay con chung còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi và đang sống cùng chị P kể từ khi vợ chồng sống ly thân, để đảm bảo được sự ổn định và sự phát triển thuận lợi của trẻ nhỏ, hai bên đã thỏa thuận để chị P trực tiếp nuôi dưỡng con chung, anh C không phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp, cần tôn trọng sự thỏa thuận của các đương sự.

[4]. Về tài sản chung; Về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản; Công sức: Do hai bên không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí: Chị P phải chịu toàn bộ án phí ly hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị P được ly hôn anh Nguyễn Văn C.

2. Về con chung:

2.1. Giao con chung là Nguyễn Ngọc Kim N, sinh ngày 03/4/2018 cho chị Trần Thị P trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Văn C không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị P không yêu cầu.

2.2. Anh Nguyễn Văn C được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, chị Trần Thị P và các thành viên trong gia đình không được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trần Thị P phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng ) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003613 ngày 20/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm khê. Chị P đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao hợp lệ hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

401
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:28/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Khê - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về