Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAM LÂM - TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 28/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 08 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 42/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 26/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22/7/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị N, sinh năm 1991; Nơi cư trú: Thôn L, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định. (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Lê Minh T, sinh năm 1990; Nơi cư trú: Thôn V, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 12 tháng 02 năm 2019, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Trần Thị N trình bày:

Về yêu cầu ly hôn: Bà Trần Thị N và ông Lê Minh T tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa ngày 10 tháng 8 năm 2012.

Trong quá trình chung sống, ông T không có trách nhiệm với gia đình. Ông T có mối quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác nên không quan tâm gì đến vợ con. Từ khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại Bình Định, năm 2016 ông T về Cam Lâm sống, bà N có vào Cam Lâm sống với ông T một thời gian nhưng ông T đối xử lạnh nhạt nên bà N lại dẫn con về Bình Định. Bà N nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không mang lại hạnh phúc nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Bà Trần Thị N và ông Lê Minh T có 01 con chung là Lê Trần Minh T1, sinh ngày 19/12/2014, con chung đang ở cùng bà N. Sau khi ly hôn bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản khi ly hôn: Bà Trần Thị N không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của Kiểm sát viên: Đề nghị Hội đồng xét xửu chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Bị đơn ông Lê Minh T đã được triệu tập lệ nhưng vắng mặt tại các phiên tòa ngày 22 tháng 7 năm 2019 và ngày 08 tháng 8 năm 2019, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về yêu cầu ly hôn: Bà Trần Thị N và ông Lê Minh T tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã C ngày 10 tháng 8 năm 2012 theo Giấy chứng nhận kết số 52 quyển 01/2012 nên quan hệ hôn nhân hợp pháp.

[3] Trong quá trình chung sống vợ chồng không hòa hợp nên thường xuyên kình cải. Từ năm 2016 bà N và ông T không còn chung sống với nhau, bà N đã về Bình Định sinh sống. Vợ chồng không còn quan tâm tới nhau. Bà N xác định không còn tình cảm với ông T; ông T không có thiện chí hàn gắn tình cảm với bà N. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân của bà N và ông T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà N.

[4] Về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Bà Trần Thị N và ông Lê Minh T có 01 con chung là Lê Trần Minh T1, sinh ngày 19/12/2014. Xét thấy con chung đang do bà N nuôi dưỡng, bà N có nguyện vọng được nuôi con chung, ông T đã được triệu tập nhiều lần nhưng không đến Tòa. Vì vậy giao con chung cho bà N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp. Bà N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xét.

[5] Về chia tài sản chung khi ly hôn: Bà Trần Thị N không yêu cầu nên không xét.

[6] Về án phí: Bà Trần Thị N phải chịu án phí sơ thẩm về ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 57, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 1 Điều 227; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị N được ly hôn ông Lê Minh T.

2. Về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Giao con chung Lê Trần Minh T1, sinh ngày 19/12/2014 cho bà N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; bà N không yêu cầu ông Trọng cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, vì lợi ích của con khi cần thiết các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

3. Về chia tài sản khi ly hôn: Bà Trần Thị N, ông Lê Minh T được quyền khởi kiện vụ án khác khi có yêu cầu.

4. Về án phí: Bà Trần Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm về ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0004714 ngày 26/3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cam Lâm, bà N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

5. Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:28/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cam Lâm - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về