Bản án 28/2018/HNGĐ-ST ngày 25/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 28/2018/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 25 tháng 10 năm 2018, tại Hội trường Toà án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 132/2018/TLST - HNGĐ ngày 05 tháng 9 năm 2018 về tranh chấp: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 05 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Th - Sinh năm: 1983

2. Bị đơn: Anh Trần Văn N - Sinh năm: 1983

Cùng địa chỉ: Thôn 3, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

Tại phiên tòa vắng mặt chị Th và anh N (Chị Th có đơn xin xét xử vắng mặt, anh N vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 31/8/2018 và bản tự khai, nguyên đơn chị Phạm Thị Th trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Trần Văn N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có tổ chức cưới và được Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 17/10/2005. Sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc bình thường đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh N chơi bời, bài bạc và có quan hệ ngoại tình nên vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau, chị và anh N đã sống ly thân từ cuối năm 2010 cho đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin được ly hôn với anh N.

- Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu: Trần Văn D, sinh ngày 02/8/2004. Hiện nay cháu khỏe mạnh bình thường và đang ở với chị. Nếu ly hôn, chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu D và không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

- Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Hà Trung đã triệu tập anh Trần Văn N  và  đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng liên quan trong hạn luật định đối với anh Trần Văn N (bố đẻ anh N là ông Trần Văn S đã nhận và cam kết sẽ giao lại văn bản tố tụng cho anh N) nhưng anh N không đến làm việc, nên không có lời khai và nguyện vọng của anh N.

Tại bản tự khai ngày 14/9/2018 cháu Trần Văn D trình bày: Hiện nay mẹ cháu là Phạm Thị Th và bố cháu là Trần Văn N ly hôn thì cháu có nguyện vọng được ở với bố N, vì từ nhỏ đến giờ cháu ở với bố và đã quen cuộc sống với bố, nên đề nghị Tòa án xem xét chấp nhận nguyện vọng của cháu.

Do chị Th có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại  khoản 4 Điều 207 BLTTDS.

Tại phiên tòa hôm nay anh Trần Văn N tiếp tục vắng mặt; chị Phạm Thị Th có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Phạm Thị Th có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Trần Văn N không có mặt tại phiên tòa, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục và phiên tòa cũng được hoãn lần thứ nhất. Do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 BLTTDS xét xử vắng mặt chị Th và anh N.

[2] Về hôn nhân: Chị Phạm Thị Th và anh Trần Văn N kết hôn với nhau năm 2005 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa và không vi phạm điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình như vậy là hôn nhân hợp pháp. Theo chị Th mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ năm 2010, nguyên nhân do anh N chơi bời bài bạc và có quan hệ ngoại tình nên vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau, anh chị đã sống ly thân từ cuối năm 2010 cho đến nay. Dù biết chị Th có đơn xin ly hôn, anh N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng anh N vẫn vắng mặt tại Tòa và không có ý kiến gì, chứng tỏ anh N cũng không thiết tha, níu kéo tình cảm vợ chồng.

Xét thấy, nguyện vọng xin được ly hôn của chị Th là có cơ sở, mâu thuẫn vợ chồng của anh chị đã trầm trọng, kéo dài trong nhiều năm, anh chị đã có thời gian dài sống ly thân và không ai quan tâm đến ai. Như vậy cuộc sống hôn nhân của chị Th và anh N không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được, HĐXX căn cứ Điều 56 Luật HNGĐ xử cho chị Th được ly hôn anh N là hoàn toàn chính đáng và phù hợp pháp luật.

[3] Về con: Vợ chồng có một con chung là cháu: Trần Văn D, sinh ngày 02/8/2004. Chị Th đã xuất trình giấy khai sinh của cháu D và có ghi họ tên mẹ là Phạm Thị Th và bố là Trần Văn N; Như vậy đủ cơ sở khẳng định cháu D là con chung của chị Th và anh N. Ly hôn chị xin được nuôi con.

Xét thấy nguyện vọng được nuôi con của chị Th là hoàn toàn chính đáng, mặc dù cháu D có nguyện vọng được ở với anh N, nhưng trong quá trình giải quyết vụ án anh N không có ý kiến gì về vấn đề con chung. Hội đồng xét xử thấy rằng hiện nay cháu D đã 14 tuổi là con trai cần có sự chăm sóc của mẹ sẽ tốt, đảm bảo hơn về mặt tâm sinh lý của cháu và anh N không có ý kiến nên không có cơ sở để giao con cho anh nuôi. Do vậy cần áp dụng Điều 81, 82 và 83 Luật HNGĐ giao cháu D cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với lợi ích của cháu.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Th không yêu cầu anh N cấp dưỡng tiền nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản: Chị Th không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Phạm Thị Th là nguyên đơn trong vụ án nên buộc chị Th phải chịu án phí dân sự hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;  điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228; Điều 238; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị Th và anh Trần Văn N.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung là cháu Trần Văn D, sinh ngày 02 tháng 8 năm 2004 cho chị Phạm Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Anh N không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị Th Anh N có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Phạm Thị Th phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số: 0000333 ngày 04/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị Th đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6; 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Th và anh N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2018/HNGĐ-ST ngày 25/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:28/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về