TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH - TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 281/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/05/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ PHẠM THU A VÀ ANH TRẦN ĐỨC B
Ngày 21 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 69/2019/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 02 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Phạm Thu A, sinh năm 1994; nơi cư trú: Thôn N, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; có mặt.
Bị đơn: Anh Trần Đức B, sinh năm 1990; nơi đăng ký hộ khẩu: Xóm xx, xã M, thành phố N, tỉnh Nam Định; hiện đang chấp hành án tại: Đội xx - phân trại số xx - trại giam N - xã Q - huyện N - tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện nộp ngày 14-02-2019, bản tự khai ngày 18-02-2019 và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Phạm Thu A trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Đức B sau thời gian tìm hiểu đã tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã M - thành phố N vào ngày 22-01-20xx trên cơ sở tự nguyện. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh B chơi bời, không tu chí làm ăn, không chăm lo cho gia đình nên vợ chồng chị thường xuyên xảy ra xích mích, cãi cọ. Vợ chồng chị đã nhiều lần nói chuyện với nhau và gia đình hai bên đã khuyên nhủ nhưng anh B không sửa đổi. Từ tháng 9-2017 anh B phải đi chấp hành án phạt tù nên mọi việc trong gia đình chị một mình lo liệu. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài. Chị đề nghị Toà án giải quyết cho vợ chồng ly hôn.
- Về nuôi con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là cháu Trần Hoàng H, sinh ngày 22-9-2017. Hiện nay cháu H đang sống cùng chị. Nếu ly hôn chị đề nghị Tòa án giao con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc vì cháu H còn nhỏ chưa đủ 3 tuổi rất cần sự chăm sóc của mẹ. Chị tự nguyện không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về chia tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 12-4-2019, bị đơn là anh Trần Đức B trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Anh thừa nhận về thời gian, điều kiện, hoàn cảnh kết hôn như chị A trình bày. Về nguyên nhân mâu thuẫn anh cho rằng vợ chồng anh xảy ra mâu thuẫn do anh phải đi chấp hành hình phạt tù nên ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh đồng ý ly hôn với chị A.
- Về nuôi con chung: Vợ chồng anh có 01 con chung là cháu Trần Hoàng H, sinh ngày 22-9-2017. Hiện nay cháu H đang sống cùng với mẹ. Nếu ly hôn anh đồng ý để chị A là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc H vì hiện nay anh đang chấp hành án trong trại giam không có điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng con chung.
- Về chia tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, hội đồng xét xử, thư ký phiên toà trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án: Đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự.
- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa, chị A và anh B đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị A. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Xử ly hôn giữa chị Phạm Thu A và anh Trần Đức B; giao cháu Trần Hoàng H, sinh ngày 22-9-2017 cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của chị A không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn. Về tài sản chung: Không có yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Tòa án nhân dân thành phố Nam Định nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
Bị đơn là anh Trần Đức B có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử xử vắng mặt anh Trần Đức B.
[2]. Về quan hệ hôn nhân:
Hôn nhân giữa chị Phạm Thu A và anh Trần Đức B là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống, chị A và anh B xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Từ tháng 9 năm 2017, anh B phải chấp hành hình phạt 06 năm 03 tháng tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” và “Trộm cắp tài sản”. Hiện tại, chị A có quan điểm xin ly hôn và anh B cũng chấp nhận ly hôn theo yêu cầu của chị A, Hội đồng xét xử thấy rằng tình trạng hôn nhân giữa chị A và anh B đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu của chị A, xử cho chị A và anh B ly hôn theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[3]. Về nuôi con chung:
Chị Phạm Thu A và anh Trần Đức B có một con chung là cháu Trần Hoàng H (giới tính: Nam), sinh ngày 22-9-2017. Chị A và anh B đều có quan điểm để chị A là người trực tiếp nuôi con sau khi vợ chồng ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy, cháu H dưới 36 tháng tuổi và đang ở với mẹ. Hiện tại chị A có đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con. Căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao cháu Trần Hoàng H cho chị Phạm Thu A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị A không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con, bản thân anh B đang chấp hành hình phạt tù, không có điều kiện cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử sẽ chấp nhận sự tự nguyện của chị A không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung.
[4]. Về chia tài sản:
Chị A và anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Chị Phạm Thu A là nguyên đơn trong vụ án nên phải nộp toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
- Căn cứ vào Khoản 1 Điều 228; Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;
- Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12- 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Xử ly hôn giữa chị Phạm Thu A và anh Trần Đức B.
2. Giao cháu Trần Hoàng H (giới tính: Nam), sinh ngày 22-9-2017 cho chị Phạm Thu A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Phạm Thu A không yêu cầu anh Trần Đức B cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh Trần Đức B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thu A phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Số tiền này được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị A đã nộp tại biên lai số 0000526 ngày 14-02-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định.
4. Chị Phạm Thu A được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trần Đức B được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 281/2019/HNGĐ-ST ngày 21/05/2019 về ly hôn giữa chị Phạm Thu A và anh Trần Đức B
Số hiệu: | 281/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về