Bản án 281/2018/HS-PT ngày 04/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 281/2018/HS-PT NGÀY 04/09/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRAI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 248/2018/TLPT-HS ngày 26/7/2018 đối với bị cáo Nguyễn Thị C, do có Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 29/2018/HSST ngày 19/6/2018 của Toà án nhân dân huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo bị kháng nghị:

Họ và tên: Nguyễn Thị C; (Tên gọi khác: P), sinh ngày 04/11/1991, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 0, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Chỗ ở trước khi phạm tội: Tạm trú tại thôn Đ, xã E, huyện G, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Nhân viên bán cà phê; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Lê Thị C1; Bị cáo có chồng là Phạm Hy V, có 01 con, sinh năm: 2015; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng giữa tháng 7/2017, Nguyễn Thị C đến xin làm nhân viên quán cà phê X do Nguyễn Văn D làm chủ quán. Đến khoảng ngày 12/12/2017, D đi về quê ở tỉnh Thái Bình có việc, giao quán cà phê X lại cho C trông coi, quản lý. Khoảng một tuần sau có một người đàn ông (không xác định được nhân thân lai lịch) đến quán cà phê X và đặt vấn đề với C là bán cho C ma túy (loại Hêrôin) để C bán lại cho người khác kiếm lời. Vì ham lợi nhuận nên C đồng ý và mua lại gói ma túy nói trên với giá 2.000.000 đồng. Đến khoảng gần 11 giờ ngày 22/12/2017 có một người đàn ông tự xưng là ở “352” gọi vào số điện thoại 01236064065 của C (qua kiểm tra điện thoại của C lưu “352” có số 0941416494) để hỏi mua ma túy với giá 3.000.000 đồng và hẹn điểm mua bán cách quán cà phê X khoảng 500m đi về hướng thị xã B. C đồng ý bán và mang theo một gói ma túy màu xanh và điều khiển xe mô tô mang Biển kiểm soát 61D1–489.95 đi đến điểm hẹn để bán cho người đàn ông mua ma túy theo như đã thỏa thuận. Gói ma túy màu trắng còn lại C vẫn cất giấu tại quán cà phê X để bán cho người khác khi có người hỏi mua. Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 22/12/2017 khi C đang đứng đợi người đàn ông mua ma túy đến để bán thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang và thu giữ trong lòng bàn tay trái của C 01 gói nylon màu xanh bên trong có chứa chất rắn màu trắng mà C khai là ma túy và qua khám xét nơi ở của C Cơ quan điều tra còn thu giữ thêm 01 gói nylon màu trắng bên trong có chứa chất rắn màu trắng C khai đó là chất ma túy. Thu giữ 01 xe mô tô mang Biển kiểm soát 61D1 – 489.95 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia bên trong có chứa 01 sim điện thoại số 01236064065.

Tại bản kết luận giám định số 120/GĐMT–PC54 ngày 28/12/2017, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong một gói nylon màu xanh được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 3,5398 gam, loại: Hêroin. Chất rắn màu trắng đựng trong một gói nylon màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,9900 gam, loại: Hêrôin. Tổng khối lượng Hêrôin C tàng trữ để bán cho người khác là 4,5298 gam.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2018/HSST ngày 19/6/2018 của Toà án nhân dân huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ Luật hình sự năm 1999.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Nguyễn Thị C 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu thời gian tạm giữ từ ngày 22/12/2017 đến ngày 28/12/2017.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 16/7/2018, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk có Quyết định kháng nghị số 09/QĐ-VKS-P7 với nội dung: Kháng nghị một phần bản án hình sự sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị C.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đa phân tich , đanh gia tinh chât , mưc đô nguy hiêm cho xa hôi đôi vơi hanh vi pham tôi cua bi cao và cho r ằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Thị C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 là có căn cứ pháp lý, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, mức hình phạt 03 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là quá nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Bởi lẽ, chỉ vì hám lợi muốn có tiền một cách nhanh chóng mà bị cáo đã có hành vi mua bán trái phép 4,5298gam Hêroin. Khối lượng ma túy mà bị cáo mua bán gần ở mức tối đa được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 là từ 0,1 đến dưới 05 gam Hêroin, có mức hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù, nhưng bản án sơ thẩm chỉ tuyên phạt bị cáo mức án bằng 1/2 mức cao nhất của khung hình phạt là thiếu nghiêm minh, không có tác dụng giáo dục, cải tạo đối với riêng bị cáo và không đủ răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị C mức án từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Chỉ vì hám lợi mà khoảng giữa tháng 12/2017 Nguyễn Thị C mua một gói ma túy với giá 2.000.000 đồng của một người đàn ông không rõ lai lịch để bán lại kiếm lời. Đến khoảng gần 11 giờ ngày 22/12/2017 có một người đàn ông tự xưng là ở “352” gọi vào số điện thoại 01236064065 của C để hỏi mua ma túy với giá 3.000.000 đồng và hẹn điểm mua bán cách quán cà phê X khoảng 500m đi về hướng thị xã B. Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 22/12/2017 khi C đang đứng đợi người đàn ông mua ma túy đến để bán thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang và thu giữ trong lòng bàn tay trái của C 01 gói nylon màu xanh có chứa 3,5398 gam Hêrôin và khám xét nơi ở của C

Cơ quan điều tra còn thu giữ thêm 01 gói nylon màu trắng bên trong có chứa khối lượng 0,9900 gam Hêrôin. Tổng khối lượng Hêrôin C mua về để bán cho người khác là 4,5298 gam. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Thị C về tội “Mua bán trái phépchất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 là có căn cứ pháp lý, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Hội đồng xét xử xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị C mức hình phạt 03 năm 06 tháng tù là quá nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Bởi lẽ, bị cáo Nguyễn Thị C đã có hành vi mua bán trái phép 4,5298 gam Hêrôin. Khối lượng Hêroin mà bị cáo mua bán gần ở mức tối đa được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 là từ 0,1 gam đến dưới 5 gam, có mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm tù. Nhưng cấp sơ thẩm chỉ tuyên phạt bằng ½ mức cao nhất của khung hình phạt là thiếu nghiêm minh, không có tác dụng giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và không đủ răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk để sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo, có như vậy mới thể hiện được sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật.

[3] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị C không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk – Sửa bản án sơ thẩm về hình phạt.Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt: Nguyễn Thị C (P) 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 22/12/2017 đến ngày 28/12/2017.

[2] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị C không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 281/2018/HS-PT ngày 04/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:281/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về