Bản án 280/2020/HNGĐ-ST ngày 18/12/2020 về ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 280/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/12/2020 VỀ LY HÔN 

Ngày 18 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 233/ 2020/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2020 về việc: Ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2020/QĐXX-ST ngày 18/11/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 49/2020/QĐST-HNGĐ ngày 27/11/2020 đều của Tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1963; Có mặt;

Địa chỉ: Thôn 5, xã T.L, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Bà Mai Thị O, sinh năm 1965;

Địa chỉ: Thôn 5, xã T.L, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa; Được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Văn K, trình bày:

Về hôn nhân: Ông và bà Mai Thị O kết hôn với nhau do hai bên tự nguyện, tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán địa phương, có đăng ký kết hôn tại UBND xã X.T, huyên Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 10/11/1990.

Sau khi kết hôn vợ chồng sống với nhau tại hạnh phúc, đến năm 1995 thì phát sinh mâu thuẫn do hai người không hợp nhau, bất đồng quan điểm, ông thường xuyên đi làm xa nhưng mỗi khi ông về nhà thì tình cảm vợ chồng lại lục đục. Từ năm 2016 gia đình chuyển từ xã X.T đến xã T.L sinh sống nhưng ông K không sống cùng bà O mà đi ở nhờ, còn bà O thì sống với vợ chồng con trai thứ hai là anh Nguyễn văn D, ông bà sống ly thân nhiều năm nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn bà O.

Về con cái: Ông và bà O có 02 con chung là Nguyễn Văn T, sinh năm 1992 và Nguyễn Văn D, sinh năm 1993.

Hiện nay các con đã trưởng thành, phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, đã có gia đình riêng nên ông không yêu cầu tòa án xem xét, giải quyết.

Về tài sản: Ông K không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn, bà Mai Thị O:

Sau khi thụ lý hồ sơ vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho bà O theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, tuy nhiên bà O không gửi ý kiến của mình bằng văn bản cho Tòa án, không đến để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và cũng không đến tham gia phiên Tòa. Do đó, Tòa án đã tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền, tố tụng: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn K yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn, bị đơn bà Mai Thị O có nơi cư trú tại xã T.L, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Đây là quan hệ pháp luật về “Ly hôn”, căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 điều 35; Điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân.

Bà Mai Thị O được tòa án triệu tập hợp lệ trong quá trình giải quyết vụ án, có những lần bà O nhận, có lần bà O không nhận văn bản của Tòa án nhưng đều vắng mặt với lý do, ông K muốn làm gì thì làm, bà không quan tâm. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt bà O.

[2]. Về hôn nhân: Ông Nguyễn Văn K và bà Mai Thị O kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã X.T, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 10/11/1990, do đó đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Văn K, HĐXX thấy rằng: Quá trình giải quyết vụ án, xét thấy tình cảm vợ chồng của ông K và bà O không còn. Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng bà O không đến làm việc, không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và không tham gia phiên Tòa. Điều đó chứng tỏ bà O không muốn níu kéo, hàn gắn quan hệ hôn nhân giữa hai người. Thực tế, nhiều năm nay ông bà không sống cùng nhau. Ông K đi ở nhờ nhà người em trai, bà O sống cùng con cháu, không ai quan tâm đến ai. Thể hiện mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của ông K.

[3]. Về con chung: Ông K và bà O không yêu cầu gì nên không xem xét, giải quyết. xét.

 [4]. Về tài sản và công nợ: Ông K và bà O không yêu cầu giải quyết nên không định.

 [5]. Về án phí: Ông Nguyễn Văn K phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 28; Điểm a khoản 1 điều 35; Điểm a khoản 1 điều 39; Khoản 4 điều 147; Khoản 2 điều 227, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 1 điều 24; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí tòa án.

- Về hôn nhân: Xử cho ông Nguyễn Văn K ly hôn với bà Mai Thị O.

- Về con cái: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Ông Nguyễn Văn K phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số AA/2019/0006168 ngày 16/9/2020 của chi cục thi hành án dân sự huyện Thọ Xuân. Ông K đã nộp đủ.

- Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn ông Nguyễn Văn K, vắng mặt bị đơn bà Mai Thị O. Ông K có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà O có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 280/2020/HNGĐ-ST ngày 18/12/2020 về ly hôn 

Số hiệu:280/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thọ Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về