Bản án 279/2019/HSST ngày 29/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 279/2019/HSST NGÀY 29/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 345/2019/HSST ngày 18 tháng 6 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2897/2019/QĐXXST- HS ngày 01 tháng 7 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Trương Văn Th, giới tính: Nam; sinh năm 1988 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký HKTT: 266/108/8 đường Đường T, phường N, quận M, TP. HCM; Chỗ ở: 229/23 Dường Đ, phường Ph, quận K, TP.HCM; quốc tịch:Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 1/12; nghề nghiệp: không; con ông Trương Văn T (chết) và bà Ngô Thị Ph; vợ: Trần Thị Hồng L (không đăng ký kết hôn) và có 01 người con sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Ngày 15/6/2008, bị Công an quận K, TP. Hồ Chí Minh bắt về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”. Ngày 21/5/201, Tòa án Nhân dân quận K xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm kể từ ngày 31/7/2009.

Tm giam: Từ ngày 24/9/2018 – có mặt.

2. Trần Thành Ph, giới tính: Nam; sinh năm 1994 tại: An Giang; Đăng ký HKTT và chỗ ở: Ấp L, phường Long S, thị xã T,tỉnh An Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: chạy xe ôm; con ông Trần Văn Th và bà Nguyễn Thị Th; Vợ: Nguyễn Ngọc An Th và có 01 người con sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Ngày 26/11/2012, bị Công an huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh bắt về hành vi “Giao cấu với trẻ em”. Ngày 21/5/2014, Tòa án Nhân dân huyện Bình Chánh xử phạt 01 năm 06 tháng tù (Bản án số 151/2014/HSST), ngày 26/02/2015 chấp hành xong hình phạt.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/9/2018 – có mặt.

Người bào chữa cho các bị cáo :

- Luật sư Đỗ Ngọc Oánh - Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Trương Văn Th – có mặt;

- Luật sư Nguyễn Ngọc Trâm - Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Trần Thành Ph – có mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 18h15’ ngày 24/9/2018, tại Phòng 105 Khách sạn M (địa chỉ số 243- 245 Đường T, phường B, quận Bình Tân) Công an quận Bình Tân đã phát hiện, bắt quả tang Trần Thành Ph và Trương Văn Th có hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

- Thu giữ trên bàn tại Phòng 105 nơi Ph đang thuê ở: 01 gói nylon chứa tinh thể không màu; Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 47,2130g, loại Methamphetamine, 500.000đ...

- Thu giữ của Th 01 xe gắn máy BS 89C1-110.82, 4.200.000đ...

Qua khám xét chỗ ở của Trương Văn Th tại nhà thuê số 229/23 Dường Đ, phường Ph, Quận K, TP. HCM, Cơ quan Công an đã thu giữ tại Lầu 1: 05 gói nylon chứa tinh thể không màu; Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 1,4234g, loại Methamphetamine; Cân điện tử, bình sử dụng ma túy… Số ma túy thu giữ của Trương Văn Th và Trần Thành Ph đã được giám định tại Bản Kết luận giám định số 1586/KLGĐ-H ngày 02/10/2018, số 1587/KLGĐ-H ngày 28/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hồ Chí Minh (BL 48,53).

Quá trình điều tra Trương Văn Th khai, Th có quen biết X (X ngụ tại số 229 Dường Đ, phường Ph, Quận K và thường ở tại Phòng 602 chung cư Galaxy, đường Nguyễn Khoái, Quận M). Trước khi bị bắt khoảng 01 tháng, X cho vợ chồng Th đến nhà X thuê tại số 229/23 Dường Đ để ở và đi giao ma túy cho X, tiền công X trả cho Th là 300.000đ/ngày.

Vào khoảng 17h00’ ngày 24/9/2018, X gọi điện gọi Trương Văn Th về nhà thuê để chở Ph đi giao ma túy. Trương Văn Th nhận của X 01 gói ma túy đá và cất vào thắt lưng quần, dùng xe máy chở Ph đến khách sạn M. Khi đến khách sạn, Th lấy gói ma túy đưa cho Ph còn Th đứng ngoài chờ Ph bán xong ma túy đưa tiền để cầm về cho X, nhưng sau đó Th và Ph bị Cơ quan Công an phát hiện bắt giữ. Còn số ma túy thu được tại nhà 229/23 đường Đ là của Th cất giấu mục đích để bán lại.

Ngoài ra, Trương Văn Th khai, trước đó đã đi giao ma túy cho X được 03 lần cho khách mua tại khu vực quận 7 và tại tỉnh Bình Dương, nhưng Th không nhớ thời gian và không biết khối lượng lượng ma túy cụ thể là bao nhiêu.

Quá trình điều tra, ban đầu Trần Thành Ph khai phù hợp với lời khai của Trương Văn Th: Vào khoảng 18h ngày 24/9/2018, Th chở Ph đến Khách sạn M để bán ma túy cho Hòa (không rõ lai lịch). Khi đến nơi, Th đưa gói ma túy cho Ph, Ph vào Khách sạn thuê Phòng 105 và để ma túy lên bàn chờ Hòa đến để giao thì bị phát hiện bắt giữ.

Tuy nhiên sau đó Ph thay đổi lời khai, khai Ph chỉ là người được X thuê đi lấy tiền bán ma túy của khách trả cho X. Vào chiều ngày 24/9/2018, X nói Ph đến nhà số 229/23 Dường Đ và gọi điện thoại cho Th về để chở Ph đi nhận tiền X bán ma túy cho Hòa, X đưa cho Ph số điện thoại của Hòa để liên lạc. Sau đó, Ph gọi điện thoại cho Hòa hẹn địa điểm giao nhận tại Khách sạn M. Trương Văn Th chở Ph đến khách sạn và đứng ngoài chờ, còn Ph vào thuê Phòng 105 đợi Hòa. Khi Hòa đến, Ph nói Hòa đưa tiền trước sẽ có người đưa ma túy cho Hòa, nếu Hòa không tin Ph thì đưa tiền cho Th đang đợi ở trước khách sạn. Lúc này, Hòa lấy ma túy ra để trên bàn và đi ra ngoài thì Công an vào kiểm tra bắt giữ Ph và Th.

Mặc dù Trần Thành Ph không thừa nhận hành vi phạm tội, nhưng căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, kết quả nhận dạng gói ma túy mà Trương Văn Th đã đưa cho Ph trước đó…có đủ căn cứ xác định gói ma túy thu được tại Phòng 105 là của Ph chưa kịp giao cho người mua.

Cơ quan điều tra đã xác minh những địa chỉ mà Trương Văn Th khai đối tượng X lưu trú, nhưng không xác định được nhân thân lai lịch của X nên không có căn cứ điều tra, làm rõ để xử lý.

Vật chứng của vụ án (được liệt kê tại Phiếu nhập kho vật chứng số 398/ PNK/2018, 399/PNK/2018 ngày 01/11/2018 và 25/PNK/2019 ngày 18/01/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an TP. Hồ Chí Minh), gồm có:

1. Thu của Trần Thành Ph:

- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 1586/18 có chữ ký của Giám định viên Võ Anh Tuấn (PC09) và ĐTV Lý Văn Dương (PC04), bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 01 ĐTDĐ hiệu Samsung.

- 01 túi xách màu đen.

- 500.000đ (đã nộp vào Tài khoản của Cơ quan CSĐT tại Kho Bạc nhà nước Quận K0).

2. Thu của Trương Văn Th:

- 01 gói niêm phong số 1587/18 có chữ ký của Giám định viên Trần Đình Hải (PC09) và Cán bộ điều tra Lý Văn Dương, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo.

- 02 cân điện tử; 01 quyển sổ; 02 bình sử dụng ma túy.

- 4.200.000đ (đã nộp vào Tài khoản của Cơ quan CSĐT tại Kho Bạc nhà nước Quận K0).

- 01 xe gắn máy hiệu Suzuki Biển số 89C1-110.82, số máy nguyên thủy còn số khung bị mài không xác định được. Th khai, mua xe này với giá 2.500.000đ, không có giấy tờ. Kết quả xác minh Biển số 89C1-110.82 là loại xe Honda hiệu Wave RSX, chủ sở hữu là chị Trần Thị Sáng, hiện chị Sáng không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra không ghi được lời khai để làm rõ. Kết quả xác minh số máy F4E4-104718 là xe có Biển số 59M1-051.39, chủ sở hữu là chị Trần Thị Thu Mỹ, chi Mỹ đã chuyển nhà đi nơi khác, nên Cơ quan điều tra không ghi được lời khai để làm rõ. Cơ quan điều tra đã đăng báo Công an TP. HCM tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có ai đến liên hệ để làm việc.

Tại Bản cáo trạng số 237/CT-VKS-P1 ngày 05 tháng 6 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo :

Trương Văn Th và Trần Thành Ph về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b Khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo Trương Văn Th, Trần Thành Ph đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong phần tranh luận đã phân tích tính chất, mức độ, vai trò phạm tội của từng bị cáo, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ hình phạt và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Trương Văn Th, Trần Thành Ph về tội “Mua bán trái phép chất ma túy ” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng dụng điểm b Khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 và đề nghị xử phạt bị cáo Trương Văn Th từ 14 đến 15 năm tù, Trần Thành Ph từ 15 đến 16 năm tù, phạt tiền mỗi bị cáo 10.000.000 đồng. Đối với vật chứng tạm giữ đề nghị xử lý theo qui định của pháp luật. Trong phần tranh luận đối đáp quan điểm bào chữa của các Luật sư, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm luận tội.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Trương Văn Th: Thống nhất tội danh, khung hình phạt mà viện kiểm sát đã truy tố. Luật sư trình bày một số tình tiết giảm nhẹ của bị cáo như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, số ma túy bị thu giữ quả tang chưa phát tán được nên hậu quả hạn chế, thu lợi bất chính không có, cha chết mẹ già yếu nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử bị cáo mức án thấp hơn mà vị đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Thành Ph: Thống nhất tội danh, khung hình phạt mà viện kiểm sát đã truy tố. Luật sư trình bày một số tình tiết giảm nhẹ của bị cáo như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, số ma túy bị thu giữ quả tang chưa phát tán được nên hậu quả hạn chế, thu lợi bất chính không có, nhận thức pháp luật hạn chế nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử bị cáo mức án thấp hơn mà vị đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị, đồng thời đề nghị xem xét miễn hoặc giảm tiền phạt bổ sung cho bị cáo vì gia đình khó khan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] - Về hành vi của các bị cáo: Căn cứ vào Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 24/9/2018 (bút lục 33); Biên bản khám xét ngày 25/9/2018 tại 229/23 Dường Đ, phường Ph, Quận K, Tp. Hồ Chí Minh (bút lục 39), các kết luận giám định, lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra có sự tham gia của Luật sư cùng các tang vật chứng thu giữ, kết hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đầy đủ căn cứ để xác định được như sau:

+ Vào lúc 18h15’ ngày 24/9/2018, tại Phòng 105 Khách sạn M(địa chỉ số 243-245 Đường T, phường B, quận Bình Tân) Công an quận Bình Tân đã phát hiện, bắt quả tang Trần Thành Ph và Trương Văn Th có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Thu giữ trên bàn tại Phòng 105 nơi Ph đang thuê ở: 01 gói nylon chứa tinh thể không màu; Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 47,2130g, loại Methamphetamine. Qua khám xét chỗ ở của Trương Văn Th tại nhà thuê số 229/23 Dường Đ, phường Ph, Quận K, TP. HCM, Cơ quan Công an đã thu giữ tại Lầu 1: 05 gói nylon chứa tinh thể không màu; Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 1,4234g, loại Methamphetamine. Tại cơ quan điều tra Trương Văn Th khai Th và Ph đã nhận ma túy của X đem bán cho người mua nhưng chưa kịp bán thì bị bắt giữ. Do đó, Trương Văn Th phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán trái phép chất ma túy đối với số ma túy bị bắt quả tang và ma túy thu giữ tại nơi ở tổng cộng là 48,5364gam Methamphetamine (47,2130gam + 1,4234gam).

+ Trần Thành Ph phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán trái phép chất ma túy đối với số ma túy bị bắt quả tang là 47,2130gr Methamphetamine.

Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ pháp lý kết luận các bị cáo Trương Văn Th, Trần Thành Ph đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thuộc trường hợp mua bán trái phép chất ma túy loại Methamphetamine có khối lượng từ ba mươi gam trở lên đến dưới một trăm gam, được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cao cho xã hội, đã xâm hại chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự trị an, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Các bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình sẽ bị pháp luật trừng phạt nghiêm khắc, nhưng vì thu lợi nhuận cao đã bất chấp hậu quả và cố ý phạm tội.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

[5]Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: xét thấy tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, cần áp dụng cho các bị cáo.

[6]Từ những phân tích nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần có hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ, động cơ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của từng bị cáo, cần có mức án nghiêm cách ly bị cáo Trương Văn Th, Trần Thành Ph khỏi đời sống xã hội thời gian dài, nhằm cải tạo giáo dục riêng đối với các bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

Ngoài ra, do hoàn cảnh các bị cáo khó khăn, chưa thu lợi bất chính nên chỉ buộc các bị cáo Trương Văn Th, Trần Thành Ph phải nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 đồng mà thôi.

Trên đây cũng là quan điểm lập luận của Hội đồng xét xử đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và lời bào chữa của các Luật sư đối với các bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng đang tạm giữ:

- Xét số tài sản gồm: + 01 điện thoại di động hiệu Samsung, imeil:…9704/3, 01 điện thoại di động hiệu Oppo (không model, màn bể) thu giữ của Ph, Th dùng để liên lạc với người thân và mua bán ma túy + 01 xe gắn máy hiệu Suzuki Biển số 89C1-110.82, số khung: không tìm thấy, số máy: F4E4-104718 + 02 cân điện tử do các bị cáo dùng vào việc phạm tội và tài sản đã được Cơ quan điều tra đăng Báo Công an Tp. Hồ Chí Minh thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng không xác định được chủ sở hữu nên tịch thu sung quỹ nhà nước;

- Cần trả lại cho bị cáo Trương Văn Th 4.200.000 đồng, bị cáo Trần Thành Ph 500.000 đồng do không liên quan đến hành vi phạm tội.

- Tịch thu tiêu hủy số tang vật còn lại vì không còn giá trị sử dụng.

Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2017.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. - Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt Trương Văn Th 15 (mười lăm) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/9/2018.

Buộc bị cáo Trương Văn Th nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước 2.

- Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt Trần Thành Ph 15 (mười lăm) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/9/2018.

Buộc bị cáo Trần Thành Ph nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Áp dụng điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,

 - Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tài sản gồm:

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung, imeil:…9704/3, 01 điện thoại di động hiệu Oppo (không model, màn bể);

+ 01 xe gắn máy hiệu Suzuki Biển số 89C1-110.82, số khung: không tìm thấy, số máy: F4E4-104718;

+ 02 cân điện tử;

- Trả lại cho bị cáo Trương Văn Th 4.200.000 (bốn triệu hai trăm ngàn) đồng và trả lại cho bị cáo Trần Thành Ph 500.000 (năm trăm ngàn) đồng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Tịch thu tiêu hủy số tang vật: 01 gói niêm phong số 1587/18/Bình Tân có chữ ký của Giám định viên Trần Đình Hải và Cán bộ điều tra Lý Văn Dương(công an quận Bình Tân), bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 1586/18/Bình Tân có chữ ký của Giám định viên Võ Anh Tuấn và Cán bộ điều tra Lý Văn Dương (công an quận Bình Tân), bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 túi xách màu đen; 02 bình sử dụng ma túy và 05 ống thủy tinh có đầu tròn; 01 Vỏ hộp giấy bánh trung thu; 01 hộp giấy có chữ GUCCI.

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 320/19 ngày 14 tháng 6 năm 2019 của Cục thi hành án dân sự TP. Hồ Chí Minh, giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 06/11/2018).

- Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo xin xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã được sửa đổi bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 279/2019/HSST ngày 29/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:279/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về