Bản án 279/2019/HS-ST ngày 11/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 279/2019/HS-ST NGÀY 11/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 11-10-2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 278/2019/TLST-HS ngày 18-9-2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 278/2019/QĐXXST-HS ngày 01-10-2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn H, sinh năm 1990 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm T, thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn B và bà Lê Thị H; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 26-6-2019 sau đó chuyển tạm giam đến nay Nhà tạm giữ Công an thành phố N; bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng: Anh Bùi Trọng M, anh Phan Tiến Q, anh Ngô Quốc H (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 00 ngày 26-6-2019 Tổ công tác, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực ngã ba đường V - Ng, xã L, thành phố N phát hiện Trần Văn H đứng cạnh xe ô tô biển kiểm soát U- 7693 do Bùi Trọng M, sinh năm 1973, trú tại: Xóm B, xã Q, huyện V, tỉnh Nam Định là lái xe chở H đang ngồi trong ô tô, thấy H có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra, H tự giác giao nộp từ tay phải của H 01 túi nilong màu trắng kích thước khoảng 5 x 7 cm, mở kiểm tra bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (H khai là ma túy đá), kiểm tra M và ô tô của M không thu giữ gì. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng và đưa H, Mỹ về trụ sở Công an lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra Tổ công tác còn tạm giữ của Trần Văn H 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ, tạm giữ của Mỹ chiếc ô tô biển kiểm soát U-7693.

Bản kết luận giám định số 653/GĐKTHS ngày 28-6-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Vật chứng thu giữ của Trần Văn H được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy Methamphetamine khối lượng mẫu: 6,980 gam.

Tại Cơ quan điều tra: Trần Văn H đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích để sử dụng như sau: Khoảng 15 giờ 20 phút ngày 26-6-2019 H ở khu vực B, huyện V, tỉnh Nam Định thuê xe ô tô biển kiểm soát U-7693 do Bùi Trọng M là lái xe chở lên thành phố N có việc, sau đó chở H về nhà với số tiền thuê là 200.000 đồng. Khi đến ngã 3 đường V - N, xã L, thành phố N thì H bảo anh M dừng xe đứng đợi, H xuống xe đi bộ một đoạn gặp Hùng (Không rõ lai lịch) mua 01 túi ma túy đá với giá 3.000.000 đồng, H cầm túi ma túy vừa mua trong tay phải đi bộ về đến gần chiếc xe ô tô định lên xe thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên. Bùi Trọng M khai không biết H thuê xe ô tô đi mua ma túy và không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của H.

Bản Cáo trạng số 280/CT-VKSTPNĐ ngày 16-9-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Trần Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm g Khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Trần Văn H xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay nhục hình. Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã nêu là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Văn H theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Điểm g Khoản 2 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Trần Văn H từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù giam; miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số ma tuý đã thu giữ của bị cáo. Trả lại cho bị cáo Trần Văn H 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Văn H có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác như biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; bản kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; lời khai của những người làm chứng nên đã có đủ cơ sở kết luận khoảng 16 giờ 00 ngày 26-6-2019, tại khu vực ngã 3 đường V - Ng, xã L, thành phố N bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 6,980 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo theo Điểm g Khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:

[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Văn H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên đối với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần pH áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...”. Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 gói ma túy trong phong bì niêm phong số 653/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy. 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho H Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đang tiến hành xác minh nên tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với chiếc xe ô tô Biển kiểm soát U-7693, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã trả lại cho anh Bùi Trọng M, sinh năm 1973, nơi cư trú: Xóm B, xã Q, huyện V, tỉnh Nam Định là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điểm g Khoản 2 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Xử phạt bị cáo Trần Văn H 06 (Sáu) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày 26-6-2019.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy trong phong bì niêm phong số 653/GĐKTHS. Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 12-9-2019 giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).

3. Án phí: Bị cáo Trần Văn H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Văn H được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người pH thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 279/2019/HS-ST ngày 11/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:279/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về