Bản án 279/2019/HNGĐ-ST ngày 21/05/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 279/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/05/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 21-5-2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 196/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 4 năm 2019 về việc “Ly hôn, giải quyết nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10-5-2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hồng V, sinh năm 1988

Địa chỉ cư trú: Số nhà 173Đ Bắc Ô 17, phường H, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

- Bị đơn: Chị Đinh Thị V, sinh năm 1990

Địa chỉ cư trú: Số nhà 173Đ Bắc Ô 17, phường H, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định

Tại phiên toà anh V có mặt, chị V có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án và tại phiên toà nguyên đơn trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị V tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn năm 2013 tại Uỷ ban nhân dân phường H, thành phố Nam Định. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống bình thường đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng khác nhau về quan điểm sống và nhận thức, không cùng chí hướng; vợ chồng không còn tình cảm, không quan tâm gì đến nhau, hiện sống ly thân nên anh xin ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Mai A, sinh ngày 14-9-2015. Nếu ly hôn anh sẽ nhường quyền nuôi con cho chị V. Mỗi tháng anh sẽ cấp dưỡng nuôi con là 2.000.000 đồng.

Về tài sản, nhà đất và công nợ chung: Anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản xác minh, thu thập chứng cứ ngày 18-4-2019, tổ trưởng tổ dân phố số 5, phường H, thành phố Nam Định xác nhận vợ chồng anh V chị V có xảy ra mâu thuẫn dẫn đến việc chị V đưa cháu Mai A đi ở nơi khác, vợ chồng không sống cùng nhau.

Quan điểm của Kiểm sát viên: Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị xử ly hôn giữa anh V và chị V; về con chung giao cháu Nguyễn Mai A cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng; ghi nhận sự tự nguyện của anh V việc cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Đinh Thị V đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, chị V không đến Tòa án giải quyết nhưng đã gửi đơn xin vắng mặt tại phiên tòa; vì vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Hồng V và chị Đinh Thị V tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn năm 2013 tại Uỷ ban nhân dân phường H, thành phố Nam Định nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân là do vợ chồng khác nhau về quan điểm sống, không có tiếng nói chung, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 2 năm 2019 đến nay không còn quan tâm gì đến nhau. Tổ dân phố cũng xác nhận vợ chồng anh V chị V có mâu thuẫn, chị V đã đưa con đi ở nơi khác. Trong quá trình giải quyết Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, chị V không đến giải quyết nhưng đã gửi đơn xin vắng mặt và trình bầy vợ chồng không thể hòa hợp được nữa nên đồng ý ly hôn và xin được nuôi con chung, yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa anh V và chị V đã lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không còn trên thực tế, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần xử ly hôn giữa anh V và chị V là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Anh Nguyễn Hồng V và chị Định Thị V có một con chung là Nguyễn Mai A, sinh ngày 14-9-2015. Chị V có quan điểm xin trực tiếp nuôi con chung; anh V cũng đồng ý; cháu Nguyễn Mai A còn nhỏ, hiện tại đang ở cùng chị V. Vì vậy ghi nhận sự thống nhất giao con chung cho chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị V yêu cầu cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3 triệu đồng; anh V không đồng ý; nhưng anh V tự nguyện nêu quan điểm cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2 triệu đồng. Xét việc cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2 triệu đồng là phù hợp với thu nhập thực tế của anh V và nhu cầu cuộc sống bình thường hiện tại tại địa phương đồng thời không trái với qui định của pháp luật nên được chấp nhận.

[4] Về tài sản, nhà đất và công nợ chung: Anh Nguyễn Hồng V và chị Đinh Thị V không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí sơ thẩm: Anh Nguyễn Hồng V phải nộp án phí ly hôn và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56 và các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 147; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa anh Nguyễn Hồng V và chị Đinh Thị V;

2. Về con chung: Giao chị Đinh Thị V trực tiếp, trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Nguyễn Mai A, sinh ngày 14 tháng 9 năm 2015. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Nguyễn Hồng V cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 (Hai triệu) đồng đến khi cháu Nguyễn Mai A đủ 18 tuổi;

Anh Nguyễn Hồng V có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

3. Án phí:

- Án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Nguyễn Hồng V phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) đồng, được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền số 0002174 ngày 11-4-2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Nam Định;

- Án phí cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Hồng V phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) đồng;

Anh Nguyễn Hồng V có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; chị Đinh Thị V có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 279/2019/HNGĐ-ST ngày 21/05/2019 về ly hôn

Số hiệu:279/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về