Bản án 279/2018/HNGĐ-ST ngày 08/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 279/2018/HNGĐ-ST NGÀY 08/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 566/2018/TLST- HNGĐ ngày 08/8/2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 405/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/9/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 320/2018/QĐST-HNGĐ ngày 16/10/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Trương Thị H, sinh năm 1987.

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Ấp T, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau. Chỗ ở hiện nay: Ấp R, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Trần Văn P, sinh năm 1984.

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau.

Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt không rõ lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 20/6/2018 và lời trình bày nguyên đơn có tại hồ sơ, thể hiện: Vào năm 2007 chị H và anh P được 02 bên gia đình tổ chức đám cưới với nhau, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã K vào ngày 03/01/2007 (giấy chứng nhận kết hôn số 01/2007). Thời kỳ chung sống giữa chị H và anh P có 01 con chung tên Trần Anh T, sinh 27/11/2007.

Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận.

Nguyên nhân mâu thuẫn: Do vợ chồng làm ăn kinh tế thất bại làm cho cuộc sống khó khăn, từ đó vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cự cải với nhau, anh P có đánh chị H 01 lần và xúc phạm chị H 01 lần, dẫn đến vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, vợ chồng đã không sống chung với nhau gần 02 năm, nhưng không có thiện chí hàn gắn trở lại.

Nay chị H yêu cầu ly hôn với anh P. Về con chung yêu cầu nuôi, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết.

- Đối với bị đơn Trần Văn P: Tòa án đã triệu tập hợp lệ 02 lần để tham gia phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, 02 lần để xét xử, nhưng anh P đều vắng mặt không rõ lý do, nên không ghi nhận được ý kiến.

- Ý kiến của cháu Trần Anh T có tại hồ sơ, thể hiện: Cháu T có nguyện vọng được sống với chị H.

Từ những nội dung vụ án thể hiện;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét về mối quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn, do đó xác định mối quan hệ pháp luật giữa các đương sự là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét về thẩm quyền của Tòa án: Bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện T, nội dung tranh chấp là việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, nên Tòa án nhân dân huyện T thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [3] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành triệu tập bị đơn hợp lệ 02 lần để xét xử, nhưng bị đơn đều vắng mặt không rõ lý do, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[4] Xét về yêu cầu ly hôn: Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân tiến bộ là vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau và sống chung với nhau; nhưng chị H và anh P không làm được điều đó, chỉ vì khó khăn về kinh tế mà anh chị lại làm cho đời sống hôn nhân mâu thuẫn trầm trọng, thậm chí anh P còn có hành vi đánh chị H, dẫn đến đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị H và anh P đã không sống chung với nhau đến nay đã gần 02 năm, nhưng không có thiện chí hàn gắn trở lại, hơn nữa trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị H cương quyết ly hôn với anh P, như vậy, xác định chị H và anh P đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng và anh Phụ đã có hành vi bạo lực gia đình, nên cần chấp nhận cho ly hôn giữa chị H và anh P là phù hợp với Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình;

 [5] Xét về con chung:

- Về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn: Hội đồng xét xử xét thấy cháu Trần Anh T đã hơn 10 tuổi và sau khi ghi nhận ý kiến của cháu, thì cháu có nguyện vọng được sống với chị H, do đó cần tôn trọng ý kiến và nguyện vọng của cháu và giao cháu Trần Anh T, sinh 27/11/2007 cho chị H nuôi dạy là phù hợp với khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Anh P có quyền đến thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở anh P thực hiện quyền này và anh P phải tôn trọng quyền của con chung được sống với chị H là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 82, khoản 2 Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung: Chị H xác định đủ điều kiện nuôi dạy con chung đến tuổi trưởng thành, nên không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con, xét thấy đây là sự tự nguyện của chị H, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Xét về tài sản chung và nợ chung: Chị H cho rằng vợ chồng tự thỏa thuận về tài sản chung và nợ chung, nhưng trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh P, nên không có căn cứ làm rõ phần tài sản chung và nợ chung giữa chị H và anh P. Do đó, cần tách phần tài sản chung và nợ chung ra, trường hợp sau này giữa các đương sự có tranh chấp và có yêu cầu thì sẽ giải quyết bằng vụ kiện khác.

 [6] Xét về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn là 300.000 đồng theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, chị H đã dự nộp tiền tạm ứng án phí trước 300.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T được chuyển thu đối trừ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về nội dung:

- Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa Trương Thị H và Trần Văn P.

- Về con chung: Giao cho chị H trực tiếp nuôi dạy con chung tên Trần Anh T, sinh 27/11/2007 đến tuổi trưởng thành. Anh P không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Anh P có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai có quyền ngăn cản anh P thực hiện quyền này và anh P phải tôn trọng quyền của con chung được sống với chị H.

2. Về án phí sơ thẩm:

Chị H phải nộp án phí ly hôn là 300.000 đồng, chị H đã dự nộp tạm ứng án phí trước 300.000 đồng theo biên lai số 0008518 ngày 08/8/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Cà Mau nay được chuyển thu đối trừ.

3. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn có quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 279/2018/HNGĐ-ST ngày 08/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:279/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về