TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 278/2019/HS-ST NGÀY 01/11/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 01 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 272/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 275/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Hữu S, sinh ngày 09/11/2000 tại tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Tổ 3, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu N, sinh năm 1959 và bà Lê Thị T, sinh năm 1963; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam ngày 20/7/2019 đến nay. Có mặt.
- Bị hại:Bà Phan Thị Thanh L, sinh năm 1976; trú tại: Thôn 7, xã Đ, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có đơn xin vắng mặt.
- Người làm chứng: Ông Biện Thanh L, ông Huỳnh Thanh H. Đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 20/7/2019 Nguyễn Hữu S đi từ trong Siêu thị A thuộc khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương ra về. Khi đến bãi giữ xe B1 của Siêu thị, S nhìn thấy trên cổ bà Phan Thị Thanh L đeo sợi dây chuyền có gắn mặt dây chuyền đều bằng vàng 18k chuẩn bị ngồi lên xe mô tô do chồng bà L là ông Biện Thanh L điều khiển. S nảy sinh ý định chiếm đoạt sợi dây chuyền nên đi bộ lại gần phía sau bà L, dùng tay phải giật sợi dây chuyền rồi bỏ chạy. Bà L tri hô “cướp, cướp” , mọi người nghe thấy truy đuổi theo khoảng 2km thì bị bắt giữ được S cùng tang vật là sợi dây chuyền, mặt dây chuyền quá trình bị cáo bỏ chạy đã làm rơi, không thu hồi được.
Theo kết luận định giá tài sản ngày 29/7/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thị xã T, tỉnh Bình Dương kết luận: 01 sợi dây chuyền bằng vàng 18k nặng 1,59 chỉ và 01 mặt dây chuyền vàng 18k nặng 5,54 phân tại thời điểm định giá có tổng giá trị là 5.037.900 đồng.
Bản Cáo trạng số 286/CT-VKS-TA ngày 18/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu S về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa:
Vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:
Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm b, h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 03 năm đến 04 năm.
Bị cáo S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thống nhất tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Hữu S tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người làm chứng có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 20/7/2019 tại siêu thị A thuộc khu phố B, phường T, thị xã T, bị cáo dùng tay giật 01 sợi dây chuyền và 01 mặt dây chuyền vàng 18k với tổng giá trị là 5.037.900 đồng của bà Phan Thị Thanh L thì bị bắt quả tang cùng tang vật. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[3] Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy đã tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm, nhưng vì lòng tham và thỏa mãn nhu cầu cá nhân, muốn có tài sản sử dụng, bị cáo vẫn cố tình thực hiện, sau khi phát hiện người bị hại có tài sản, bị cáo công khai dùng tay giật lấy tài sản của họ rồi nhanh chóng tẩu thoát nhằm tránh sự phản kháng của bị hại, hành vi của bị cáo trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trật tự, trị an tại địa phương, do đó cần xử phạt bị cáo với tương xứng, phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có. [6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tác động gia đình bồi thường cho bị hại, khắc phục hậu quả; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn (tài sản đã thu hồi, trả lại cho bị hại); bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, h, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nơi cư trú rõ ràng, nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, tuổi đời còn trẻ, nhất thời phạm tội, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cho bị cáo hưởng án treo, tự cải tạo ở địa phương.
[7] Lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà L vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ thể hiện bị cáo đã tác động gia đình bồi thường giá trị mặt dây chuyền là 2.000.000 đồng, bị hại không yêu cầu gì thêm.
[9] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Điều tra thu giữ: 01 sợi dây chuyền vàng 18k, nặng 1,59 chỉ là tài sản của bà L nên Cơ quan Điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 171; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
- Điều 136 và khoản 4 Điều 328 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về trách nhiệm hình sự:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu S phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu S 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 (ba) năm tính từ ngày tuyên án 01/11/2019.
Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự năm 2010.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 hai lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về án phí:
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 278/2019/HS-ST ngày 01/11/2019 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 278/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về